Triết gia Plato từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đã từng đề cập đến chuyện ẩn danh trên... Internet.
Thật ra, ông chỉ kể một câu chuyện ngụ ngôn về chiếc nhẫn Gyges, ai đeo vào đều có thể tàng hình theo ý muốn. Gyges là một người chăn cừu ở xứ Lydia, một hôm tình cờ phát hiện chiếc nhẫn giúp anh tàng hình khi xoay chiều chiếc nhẫn. Anh ta trở về kinh thành, dùng nhẫn để quyến rũ hoàng hậu, giết vua Lydia và lên làm vua.
Plato lập luận bất kỳ một con người bình thường sống rất đạo đức vẫn có thể làm chuyện xấu nếu không còn phải lo sợ về hậu quả hành động của mình, tức là “tàng hình” trong mắt người khác. Plato cho rằng đạo đức là một thiết chế xã hội, nguồn động lực dẫn dắt đạo đức là ước muốn gìn giữ uy tín cá nhân trước mắt xã hội. Nhưng nếu hàng rào này bị tháo bỏ, con người có thể đánh mất đạo đức trong nháy mắt.
Gạt chuyện Plato qua một bên, giả sử chúng ta có một chiếc áo tàng hình, ý nghĩ đầu tiên của đa số là gì? Chắc cũng là một ý xấu nào đó mà giữa thanh thiên bạch nhật, ít ai dám làm. Từ ăn trộm đến nghe lén, từ theo dõi người khác đến lẻn vào phòng... người mình đang yêu thầm nhớ trộm. Chí ít cũng là những hành vi “thế thiên hành đạo” ngoài vòng pháp luật.
Tác giả Julie Zhuo dùng hình ảnh chiếc nhẫn Gyges trong một bài báo trên tờ New York Times để cho rằng tình trạng ẩn danh rồi nhảy vào các mạng xã hội, phần bình luận trên các trang báo chính thống, để nói năng bạt mạng, hạ nhục lăng mạ người khác là hậu quả của khả năng không bị phát hiện của các “commentors” (người bình luận). Nếu không chịu trách nhiệm cho những phát biểu của mình, người ta có thể ăn nói vô tội vạ mà bình thường chính họ cũng không thể chấp nhận. Nói cách khác, theo các nhà tâm lý học, ẩn danh làm tăng hành vi phi đạo đức trên thế giới ảo.
Báo chí chính thống hiện nay đã phải xây dựng những phần mềm lọc các “comment” (lời bình luận) mang tính chất như thế. Nhiều tờ báo yêu cầu người đọc phải đăng ký tên và địa chỉ e-mail thật trước khi có thể gửi comment. Nhưng như thế chưa đủ vì người ta vẫn có thể tạo ra tên ảo, địa chỉ e-mail ảo dễ dàng. Vấn đề là sử dụng lý thuyết trò chơi và sức mạnh cộng đồng để loại bỏ các comment khoác áo ẩn danh để nói bậy.
Các diễn đàn và phần bình luận của các báo phải xây dựng cho được một cộng đồng mạnh - ở đó dù là thế giới ảo cũng phải tuân thủ một số luật chơi nếu không muốn bị loại ra khỏi cộng đồng. Nếu hôm nay một người comment theo kiểu “ăn vạ” hôm sau tất cả cộng đồng nghỉ chơi với anh ta thì dù núp dưới một danh xưng nào đó, anh ta cũng sẽ cảm nhận được sức ép của cộng đồng. Những comment mang tính xây dựng, đưa ra những ý tưởng mới, viết có tính thuyết phục sẽ dần dà tạo cho người comment một uy tín trong cộng đồng không khác gì bên ngoài thế giới thật. Lúc đó, chiếc nhẫn Gyges sẽ chẳng còn giúp được ai làm bậy.
Văn Cầm
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Tuesday, December 28, 2010
Monday, December 27, 2010
Tám điều nên từ bỏ trong cuộc sống
1. Từ bỏ áp lực
Dù bạn có mệt mỏi hay không, điều đó đều phụ thuộc vào nhận thức của bạn. Nếu bạn không làm sạch tâm hồn mình, tâm hồn ấy sẽ bám đầy bụi bặm. Mỗi ngày bạn sẽ gặp rất nhiều chuyện, vui có, buồn có. Tất cả những chuyện này sẽ đọng lại trong tâm, sẽ tích tụ lại và làm xáo trộn tâm trí bạn. Nếu bạn cứ giữ mãi những kỉ niệm buồn, chẳng mấy chốc bạn sẽ trở nên phiền muộn. Vì thế, hãy làm sạch tâm hồn mình, hãy để mọi chuyện nguôi ngoai, hãy bỏ qua những kỉ niệm đau thương, và rồi bạn sẽ có thật nhiều khoảng trống cho hạnh phúc. Bất hạnh là nguồn gốc của mọi khổ đau.
2. Từ bỏ những lo toan
Hạnh phúc thực ra rất đơn giản.
Tập cười: đừng máy móc thay đổi nét mặt mà hãy cố gắng thay đổi cảm xúc thực sự ở bên trong. Học cách bình thản chấp nhận thực tế; hãy học cách tự nói với mình: "Tôi sẽ thuận theo tự nhiên."; hãy học cách đối mặt với khủng hoảng một cách ngay thẳng; hãy học cách nhìn vào cuộc sống một cách tích cực; học cách nhìn vào mặt tốt của mọi việc. Bằng cách làm như vậy, ánh dương sẽ chiếu rọi đến tâm hồn bạn và xua tan đi bóng tối.
Hạnh phúc đơn giản như vậy đấy: chỉ là cho phép bản thân mình được hạnh phúc và đó là tất cả.
3. Từ bỏ mặc cảm tự ti
Hãy loại nó ra khỏi từ điển của bạn.
4. Từ bỏ sự lười biếng
Làm việc chăm chỉ có thể thay đổi cuộc đời của một con người.
Đừng mù quáng ganh tị với kĩ năng của những người khác. Nếu bạn có thể cố gắng và kiên trì, bạn cũng có thể có được nó. Bởi khi bạn luyện tập cho tới khi hoàn hảo, đó là một kĩ năng.
Hãy nhắc nhở bản thân rằng: cải thiện bản thân mình, vui vẻ, khỏe mạnh, và tốt bụng, sẽ giúp bạn có một cuộc sống tuyệt vời.
5. Từ bỏ sự tiêu cực
Nếu bạn muốn thành công, xin hãy cổ vũ cho những gì tốt nhất. Hãy thay thế thái độ tiêu cực của bạn bằng một thái độ tích cực. Hãy thay sự thiếu hiểu biết bằng sự thanh cao, thay đạo đức giả bằng sự chân thành; thay sự thiển cận bằng lòng vị tha, thay sự phiền muộn bằng hạnh phúc, thay sự lười biếng bằng sự chăm chỉ, thay sự dễ bị tổn thương bằng sự bền bỉ… chỉ cần bạn sẵn sàng, bạn sẽ trở nên tốt nhất có thể trong phần còn lại của cuộc đời.
Không ai có thể làm ảnh hưởng tới kết quả của cuộc chiến đấu của bạn. Bạn là vị tướng đang làm nhiệm vụ. Dù không phải ước mơ nào cũng thành hiện thực, nhưng những giấc mơ đẹp sẽ mang cái đẹp đến cho cuộc đời bạn.
6. Từ bỏ những lời than vãn
Tốt hơn hết là hãy làm việc chăm chỉ thay vì than thở.
Mọi thất bại đều là nền tảng cho thành công. Than thở và từ bỏ là những chướng ngại vật cản trở thành công đến với bạn. Bình thản chấp nhận thất bại có lẽ là một cách thông minh hơn. Than thở không thay đổi được thực tại và chỉ có làm việc chăm chỉ mới đem lại hy vọng. Vàng ròng luôn chờ ngày tỏa sáng.
Rất nhiều điều kỳ diệu trong cuộc sống được tạo ra bởi những người sinh ra trong những hoàn cảnh bất hạnh.
Đừng lo lắng về cuộc đời, và đừng nghĩ rằng cuộc đời bất công với bạn. Thực tế, bạn được ban tặng nhiều như những người khác.
7. Từ bỏ sự chần chừ
Hãy hành động nhanh: khi bạn đã quyết đinh, đừng do dự; hãy tiến về phía mục tiêu và đừng nhìn lại. Cơ hội chỉ đến trong nháy mắt và chỉ có tốc độ cao và sự quả quyết mới có thể bắt được nó.
Hành động nhanh là một trong những đức tính của những người thành công. Khi bạn biết rằng ý kiến của mình là tốt, hãy thực hiện nó sớm nhất có thể; nếu bạn thấy một cơ hội tốt, hãy nắm lấy nó. Như vậy, đảm bảo bạn sẽ thành công.
Có những người bạn phải quên đi. Có những việc thực sự tốt cho bạn để nhìn lại chính mình. Có những việc phải quan tâm đến. Có những việc không thể chờ, và một khoảnh khắc do dự sẽ dẫn đến niềm ân hận suốt đời. Chỉ khi bạn có thể bỏ qua những thứ bạn nên bỏ quả, bạn sẽ có được hạnh phúc thực sự thuộc về bạn trong cuộc đời này.
8. Từ bỏ sự hẹp hòi
Khi tâm trí bạn rộng mở, Trời đất sẽ có chỗ cho bạn.
Bao dung là một đức hạnh. Khi bạn bao dung với người khác, bạn đang thực sự dọn chỗ cho tâm hồn mình.
Chỉ trong một thế giới bao dung, loài người mới có thể tấu lên bản nhạc du dương của cuộc đời.
Nếu chúng ta không muốn định kiến, chúng ta phải tạo ra một xã hội bao dung. Nếu chúng ta muốn phá bỏ định kiến, đầu tiên chúng ta phải từ bỏ sự hẹp hòi.
Chỉ bằng cách tránh xa định kiến, một người có thể hài hòa với chính bản thân mình, với người khác, và với xã hội. Chúng ta không chỉ muốn bản thân mình hạnh phúc, mà còn muốn tất cả bạn bè, người thân và thậm chí ngay cả những người xa lạ cũng được hạnh phúc. Chúng ta muốn mọi người cùng chia sẻ niềm hạnh phúc ấy. Niềm vui của sự chia sẻ tuyệt vời hơn rất nhiều niềm vui của sự sở hữu.
Nguồn: http://en.secretchina.com/lifestyles_entertainment/3838.html

2. Từ bỏ những lo toan
Hạnh phúc thực ra rất đơn giản.
Tập cười: đừng máy móc thay đổi nét mặt mà hãy cố gắng thay đổi cảm xúc thực sự ở bên trong. Học cách bình thản chấp nhận thực tế; hãy học cách tự nói với mình: "Tôi sẽ thuận theo tự nhiên."; hãy học cách đối mặt với khủng hoảng một cách ngay thẳng; hãy học cách nhìn vào cuộc sống một cách tích cực; học cách nhìn vào mặt tốt của mọi việc. Bằng cách làm như vậy, ánh dương sẽ chiếu rọi đến tâm hồn bạn và xua tan đi bóng tối.
Hạnh phúc đơn giản như vậy đấy: chỉ là cho phép bản thân mình được hạnh phúc và đó là tất cả.
3. Từ bỏ mặc cảm tự ti
Hãy loại nó ra khỏi từ điển của bạn.
Không phải ai cũng có thể là một người vĩ đại để mọi người ngưỡng mộ, nhưng ai cũng có thể có một tâm hồn vĩ đại. Một tâm hồn vĩ đại có thể xoa dịu những nỗi đau và cả những muộn phiền nơi người khác; nó có thể bù đắp cho những thiếu sót của bạn; nó có thể giúp bạn tiếp tục hành trình cuộc sống mà không hề sợ hãi, và nó cũng giúp bạn nhận ra rằng những suy nghĩ của riêng bạn có thể vượt qua cả tòa nhà cao nhất và ngọn núi lớn nhất!
Hãy tin vào chính mình, tìm cho riêng mình một chỗ thích hợp và bạn cũng có thể có một cuộc sống đáng giá.4. Từ bỏ sự lười biếng
Làm việc chăm chỉ có thể thay đổi cuộc đời của một con người.
Đừng mù quáng ganh tị với kĩ năng của những người khác. Nếu bạn có thể cố gắng và kiên trì, bạn cũng có thể có được nó. Bởi khi bạn luyện tập cho tới khi hoàn hảo, đó là một kĩ năng.
Hãy nhắc nhở bản thân rằng: cải thiện bản thân mình, vui vẻ, khỏe mạnh, và tốt bụng, sẽ giúp bạn có một cuộc sống tuyệt vời.
5. Từ bỏ sự tiêu cực
Nếu bạn muốn thành công, xin hãy cổ vũ cho những gì tốt nhất. Hãy thay thế thái độ tiêu cực của bạn bằng một thái độ tích cực. Hãy thay sự thiếu hiểu biết bằng sự thanh cao, thay đạo đức giả bằng sự chân thành; thay sự thiển cận bằng lòng vị tha, thay sự phiền muộn bằng hạnh phúc, thay sự lười biếng bằng sự chăm chỉ, thay sự dễ bị tổn thương bằng sự bền bỉ… chỉ cần bạn sẵn sàng, bạn sẽ trở nên tốt nhất có thể trong phần còn lại của cuộc đời.
Không ai có thể làm ảnh hưởng tới kết quả của cuộc chiến đấu của bạn. Bạn là vị tướng đang làm nhiệm vụ. Dù không phải ước mơ nào cũng thành hiện thực, nhưng những giấc mơ đẹp sẽ mang cái đẹp đến cho cuộc đời bạn.
6. Từ bỏ những lời than vãn
Tốt hơn hết là hãy làm việc chăm chỉ thay vì than thở.
Mọi thất bại đều là nền tảng cho thành công. Than thở và từ bỏ là những chướng ngại vật cản trở thành công đến với bạn. Bình thản chấp nhận thất bại có lẽ là một cách thông minh hơn. Than thở không thay đổi được thực tại và chỉ có làm việc chăm chỉ mới đem lại hy vọng. Vàng ròng luôn chờ ngày tỏa sáng.
Rất nhiều điều kỳ diệu trong cuộc sống được tạo ra bởi những người sinh ra trong những hoàn cảnh bất hạnh.
Đừng lo lắng về cuộc đời, và đừng nghĩ rằng cuộc đời bất công với bạn. Thực tế, bạn được ban tặng nhiều như những người khác.
7. Từ bỏ sự chần chừ
Hãy hành động nhanh: khi bạn đã quyết đinh, đừng do dự; hãy tiến về phía mục tiêu và đừng nhìn lại. Cơ hội chỉ đến trong nháy mắt và chỉ có tốc độ cao và sự quả quyết mới có thể bắt được nó.
Hành động nhanh là một trong những đức tính của những người thành công. Khi bạn biết rằng ý kiến của mình là tốt, hãy thực hiện nó sớm nhất có thể; nếu bạn thấy một cơ hội tốt, hãy nắm lấy nó. Như vậy, đảm bảo bạn sẽ thành công.
Có những người bạn phải quên đi. Có những việc thực sự tốt cho bạn để nhìn lại chính mình. Có những việc phải quan tâm đến. Có những việc không thể chờ, và một khoảnh khắc do dự sẽ dẫn đến niềm ân hận suốt đời. Chỉ khi bạn có thể bỏ qua những thứ bạn nên bỏ quả, bạn sẽ có được hạnh phúc thực sự thuộc về bạn trong cuộc đời này.
8. Từ bỏ sự hẹp hòi
Khi tâm trí bạn rộng mở, Trời đất sẽ có chỗ cho bạn.
Bao dung là một đức hạnh. Khi bạn bao dung với người khác, bạn đang thực sự dọn chỗ cho tâm hồn mình.
Chỉ trong một thế giới bao dung, loài người mới có thể tấu lên bản nhạc du dương của cuộc đời.
Nếu chúng ta không muốn định kiến, chúng ta phải tạo ra một xã hội bao dung. Nếu chúng ta muốn phá bỏ định kiến, đầu tiên chúng ta phải từ bỏ sự hẹp hòi.
Chỉ bằng cách tránh xa định kiến, một người có thể hài hòa với chính bản thân mình, với người khác, và với xã hội. Chúng ta không chỉ muốn bản thân mình hạnh phúc, mà còn muốn tất cả bạn bè, người thân và thậm chí ngay cả những người xa lạ cũng được hạnh phúc. Chúng ta muốn mọi người cùng chia sẻ niềm hạnh phúc ấy. Niềm vui của sự chia sẻ tuyệt vời hơn rất nhiều niềm vui của sự sở hữu.
Nguồn: http://en.secretchina.com/lifestyles_entertainment/3838.html
Tuesday, December 21, 2010
Tuesday, December 7, 2010
Đi ngược dòng
Mỗi buổi sáng, khi mặt trời lên, cũng là lúc hầu hết mọi người hối hả lao ra khỏi nhà, cuống cuồng đi đến những nơi nào đó tạo nên một dòng người cuồn cuộn ngoài đường.
Dòng chảy ấy len qua mọi con phố, vào cả những ngóc ngách, hẻm hóc. Ở đâu có đường đi - dù rộng hay hẹp, lớn hay bé - thì ở đó đều có người đi, tất bật và hối hả. Là đến trường, ra chợ, đến nơi làm việc, đưa con đi học, hẹn hò cà phê sáng…, mỗi người có một đích đến khác nhau. Và chiều buông cũng thế, ai nấy vội vã trở về nhà hay lại tiếp tục đến một chỗ hẹn khác. Ai cũng có việc phải đi, nơi phải đến, tất cả đều quan trọng với họ.
Nếu bạn lọt vào dòng người đó thì việc quay đầu xe lại là cả một thách thức lớn. Ai cũng nhắm thẳng về đích nên chẳng ai muốn nhường đường, chẳng ai chịu giảm tốc, chẳng ai cần biết người khác muốn đi, về đâu, theo hướng nào. Đã là dòng chảy rồi thì khó lòng cưỡng lại được. Cách nào để đi ngược lại? Chỉ cần dừng lại là ngay lập tức bạn bị xe đằng sau húc vào, và không tránh khỏi những tiếng la mắng cất lên, nếu may mắn hơn bạn sẽ “được” nghe những câu “thúc giục” mạnh mẽ: “Nhanh lên! Đi cho người khác còn đi nữa! (dĩ nhiên là cứ phải đi thẳng tới!) hay tiếng còi xe inh ỏi. Sẽ không ai cho bạn cái quyền được quay ngược lại. Trong dòng chảy này, dừng lại, tấp vào lề hay sang đường đã là khó, đổi chiều là thứ “xa xỉ” hơn vì ai cũng hối hả với mục đích riêng của mình.
Một ngày như mọi ngày, cuộc sống cuốn người ta đi đến những nơi quen thuộc, làm những việc quen thuộc, nghĩ theo lối quen thuộc, hành xử theo cách quen thuộc... Bạn khó lòng thoát khỏi đám đông, nhất là đám đông đang tạo thành làn sóng cuộn chảy. Sống cuộc đời của chính mình mà không để những tác động của xung quanh làm chệch hướng quả thật không dễ. Thế nên khi bạn quyết định đi theo tiếng gọi của riêng mình và buộc phải đi ngược lại số đông thì nhất định bạn phải sáng suốt và có dũng khí. Bạn phải chấp nhận đối mặt với những người sẵn sàng đẩy bạn đến nơi bạn chẳng hề muốn. Có thể có những va chạm, vấp váp và thậm chí đổ vỡ, nhưng đó là điều cần thiết nếu bạn muốn là chính mình. Những lúc đó, hãy lắng nghe mạch chảy của trái tim và suối nguồn của trí tuệ. Hãy luôn là người biết mình đang làm gì và đi về đâu, đừng để dòng người cuốn bạn trôi dạt ra xa đích đến.
Diễn giả Quách Tuấn Khanh
Nguồn: Thanh Niên online
Dòng chảy ấy len qua mọi con phố, vào cả những ngóc ngách, hẻm hóc. Ở đâu có đường đi - dù rộng hay hẹp, lớn hay bé - thì ở đó đều có người đi, tất bật và hối hả. Là đến trường, ra chợ, đến nơi làm việc, đưa con đi học, hẹn hò cà phê sáng…, mỗi người có một đích đến khác nhau. Và chiều buông cũng thế, ai nấy vội vã trở về nhà hay lại tiếp tục đến một chỗ hẹn khác. Ai cũng có việc phải đi, nơi phải đến, tất cả đều quan trọng với họ.
Nếu bạn lọt vào dòng người đó thì việc quay đầu xe lại là cả một thách thức lớn. Ai cũng nhắm thẳng về đích nên chẳng ai muốn nhường đường, chẳng ai chịu giảm tốc, chẳng ai cần biết người khác muốn đi, về đâu, theo hướng nào. Đã là dòng chảy rồi thì khó lòng cưỡng lại được. Cách nào để đi ngược lại? Chỉ cần dừng lại là ngay lập tức bạn bị xe đằng sau húc vào, và không tránh khỏi những tiếng la mắng cất lên, nếu may mắn hơn bạn sẽ “được” nghe những câu “thúc giục” mạnh mẽ: “Nhanh lên! Đi cho người khác còn đi nữa! (dĩ nhiên là cứ phải đi thẳng tới!) hay tiếng còi xe inh ỏi. Sẽ không ai cho bạn cái quyền được quay ngược lại. Trong dòng chảy này, dừng lại, tấp vào lề hay sang đường đã là khó, đổi chiều là thứ “xa xỉ” hơn vì ai cũng hối hả với mục đích riêng của mình.
Một ngày như mọi ngày, cuộc sống cuốn người ta đi đến những nơi quen thuộc, làm những việc quen thuộc, nghĩ theo lối quen thuộc, hành xử theo cách quen thuộc... Bạn khó lòng thoát khỏi đám đông, nhất là đám đông đang tạo thành làn sóng cuộn chảy. Sống cuộc đời của chính mình mà không để những tác động của xung quanh làm chệch hướng quả thật không dễ. Thế nên khi bạn quyết định đi theo tiếng gọi của riêng mình và buộc phải đi ngược lại số đông thì nhất định bạn phải sáng suốt và có dũng khí. Bạn phải chấp nhận đối mặt với những người sẵn sàng đẩy bạn đến nơi bạn chẳng hề muốn. Có thể có những va chạm, vấp váp và thậm chí đổ vỡ, nhưng đó là điều cần thiết nếu bạn muốn là chính mình. Những lúc đó, hãy lắng nghe mạch chảy của trái tim và suối nguồn của trí tuệ. Hãy luôn là người biết mình đang làm gì và đi về đâu, đừng để dòng người cuốn bạn trôi dạt ra xa đích đến.
Diễn giả Quách Tuấn Khanh
Nguồn: Thanh Niên online
Sunday, November 14, 2010
My boss
Người tiên phong kiểm thử phần mềm
TT - Halliburton - tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới - vừa tài trợ 1.890 bản quyền phần mềm dầu khí Landmark trị giá 60 triệu USD cho Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM). Làm mai mối cho hợp đồng tài trợ này là chủ tịch Tập đoàn LogiGear Nguyễn Quốc Hùng, người tiên phong trong lĩnh vực kiểm thử phần mềm.
Đến Mỹ năm 1982, Nguyễn Quốc Hùng bước vào ĐH chuyên ngành kiểm định chất lượng. Ông tự nhận mình đã rất may mắn khi được sống tại Silicon Valley, được gặp gỡ, làm việc với rất nhiều người giỏi, tiếp cận được nhiều sản phẩm rất mới, được thử thách ở nhiều vị trí như quản lý lập trình, quản lý đội ngũ tại các tập đoàn rất lớn sau này như Electronic Art, Palm Computing...
Tác giả sách "best-seller"
Cuối thập niên 1980, ngành công nghiệp máy tính Mỹ thiệt hại hàng tỉ USD mỗi năm bởi các lỗi lập trình. Kiểm định phần mềm ra đời và còn thô sơ, các chuyên gia kiểm định đều chú trọng vào tiến trình kiểm định ứng dụng từ phần cứng sang phần mềm.
Đã làm về phần cứng nên ông Hùng hiểu hướng đi này sai, bèn viết sách khẳng định kiểm thử phần mềm là như thế nào. Bộ sách đầu tiên Kiểm thử phần mềm máy tính ông viết chung với Cem Kaner và Jack Falk đã bán được 100.000 bản, trở thành sách best-seller trong suốt tám năm liền trên toàn cầu.
Khi người ta bắt đầu nhìn thấy vị trí quan trọng của kiểm thử, năm 1993 ông Hùng thành lập Trường ĐH LogiGear chuyên đào tạo về kiểm thử. Vừa giảng dạy ông vừa viết các bộ sách khác như Thảo luận về kiểm thử phần mềm dành cho các nhà lãnh đạo được giới chuyên môn đón nhận với đánh giá rất cao.
Một năm sau, Công ty LogiGear ra đời chuyên cung cấp dịch vụ kiểm thử phần mềm. Không hài lòng với kết quả đạt được, ông tiếp tục phát triển lĩnh vực kiểm thử phần mềm theo hướng tự động hóa. Rất nhanh chóng, LogiGear đã trở thành công ty hàng đầu thế giới về kiểm thử phần mềm. Khách hàng của LogiGear là những công ty thuộc Fortune 500 như Google, Cisco, McAfee... Ông Hùng được mời đi huấn luyện về kiểm thử phần mềm ở khắp nơi.
“Tôi chọn VN”
Năm 2001, khi kinh tế Mỹ suy thoái, LogiGear mất rất nhiều hợp đồng và mất đến 80% doanh số chỉ trong vòng một năm. “Các doanh nghiệp đều theo hướng đi tìm các thị trường tiềm năng để thuê gia công. Người ta đề nghị tôi đến Ấn Độ, nhưng tôi chọn VN” - ông Hùng nói.
Sau 20 năm xa xứ, ông Hùng đã về VN tuyển chọn nhân sự cho dự án xây dựng trung tâm kiểm thử tự động hóa. LogiGear VN được thành lập năm 2005. Ông Hùng chia sẻ: “Tôi muốn đẩy mạnh ngành kiểm thử phần mềm ở VN để người ta thấy VN là một mảnh đất tuyệt vời”.
Năm 2006, ông bắt đầu hợp tác với các trường ĐH để đào tạo nhân lực. “Tôi muốn khi người ta cần lập trình viên giỏi thì đến Ấn Độ, Trung Quốc, còn kiểm thử giỏi thì đến VN” - ông Hùng tự tin. Khởi đầu từ sự hợp tác với Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG TP.HCM), đến nay đã có rất nhiều trường ĐH trên toàn quốc đưa kiểm thử phần mềm vào chương trình học ngành công nghệ thông tin theo chuẩn của LogiGear.
“Để ngành kiểm thử phát triển phải tạo ra một cộng đồng giỏi nghề và tiếp thị ra thế giới”. Nói là làm, ông Hùng lên kế hoạch tổ chức hội nghị quốc tế VISTACon về kiểm thử phần mềm. “Sự kiện này tạo cơ hội tiếp cận với các chuyên gia giỏi của thế giới, đồng thời quảng bá cho người nước ngoài thấy VN có những con người rất tài”. Sau hơn một năm chuẩn bị và thực hiện, VISTACon 2010 đã thành công hơn mong đợi.
Nói về tiềm năng của ngành kiểm thử phần mềm ở VN, ông Hùng lạc quan cho biết TP.HCM thuộc sáu thành phố phát triển nhất thế giới về ngành này, trong khi thị trường kiểm thử phần mềm toàn cầu có tổng giá trị mỗi năm ước chừng 13 tỉ USD. Nghề này nếu được đào tạo đúng bài bản sẽ phát triển rất nhanh, thu nhập cũng khá...
Sau VISTACon 2010, ông Hùng lại vội vã với một kế hoạch đi lưu diễn nhạc jazz ở Tây Ban Nha. Có lẽ ít người biết ông chủ LogiGear là tay đàn guitar và vocal trong dàn nhạc nổi tiếng San Francisco Bay Jazz. Ông nói vui không thể bỏ nghề đàn vì đã nuôi ông khi dotcom khủng hoảng.
Mang phong cách tùy hứng và ngẫu hứng ứng biến của nhạc jazz vào xử lý công việc là lời tự nhận xét của ông Hùng. Nhưng những người đã tiếp xúc với ông, đối tác, nhân viên đều có nhận xét chung rằng ông là một người rất chu toàn và uy tín trong công việc. Triết lý sống của ông thật đơn giản: làm hết sức cho điều mình muốn làm. Nhìn lại chặng đường đã qua ông bảo ông rất hạnh phúc với con đường đã chọn.
Tìm lỗi và thẩm định
Chiếm 30-40% trong quy trình phát triển phần mềm, kiểm thử phần mềm là khảo sát thực tiễn sản phẩm, dịch vụ phần mềm trong đúng môi trường sẽ triển khai nhằm tìm kiếm các lỗi hoặc thẩm định xem hệ thống phần mềm có đáp ứng các yêu cầu hay không để bảo đảm tối ưu hiệu quả làm việc.
Nghề kiểm thử đòi hỏi tính cẩn thận, tỉ mỉ, sự trung thực bởi nắm được những lỗ hổng của công nghệ, sản phẩm mới.
HỒNG NHUNG
(Nguồn: Tuổi Trẻ)
TT - Halliburton - tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới - vừa tài trợ 1.890 bản quyền phần mềm dầu khí Landmark trị giá 60 triệu USD cho Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TP.HCM). Làm mai mối cho hợp đồng tài trợ này là chủ tịch Tập đoàn LogiGear Nguyễn Quốc Hùng, người tiên phong trong lĩnh vực kiểm thử phần mềm.
Ông Hùng và cây guitar trong giờ giải lao tại hội nghị VISTACon về kiểm thử phần mềm
- Ảnh nhân vật cung cấp
- Ảnh nhân vật cung cấp
Đến Mỹ năm 1982, Nguyễn Quốc Hùng bước vào ĐH chuyên ngành kiểm định chất lượng. Ông tự nhận mình đã rất may mắn khi được sống tại Silicon Valley, được gặp gỡ, làm việc với rất nhiều người giỏi, tiếp cận được nhiều sản phẩm rất mới, được thử thách ở nhiều vị trí như quản lý lập trình, quản lý đội ngũ tại các tập đoàn rất lớn sau này như Electronic Art, Palm Computing...
Tác giả sách "best-seller"
Cuối thập niên 1980, ngành công nghiệp máy tính Mỹ thiệt hại hàng tỉ USD mỗi năm bởi các lỗi lập trình. Kiểm định phần mềm ra đời và còn thô sơ, các chuyên gia kiểm định đều chú trọng vào tiến trình kiểm định ứng dụng từ phần cứng sang phần mềm.
Đã làm về phần cứng nên ông Hùng hiểu hướng đi này sai, bèn viết sách khẳng định kiểm thử phần mềm là như thế nào. Bộ sách đầu tiên Kiểm thử phần mềm máy tính ông viết chung với Cem Kaner và Jack Falk đã bán được 100.000 bản, trở thành sách best-seller trong suốt tám năm liền trên toàn cầu.
Khi người ta bắt đầu nhìn thấy vị trí quan trọng của kiểm thử, năm 1993 ông Hùng thành lập Trường ĐH LogiGear chuyên đào tạo về kiểm thử. Vừa giảng dạy ông vừa viết các bộ sách khác như Thảo luận về kiểm thử phần mềm dành cho các nhà lãnh đạo được giới chuyên môn đón nhận với đánh giá rất cao.
Một năm sau, Công ty LogiGear ra đời chuyên cung cấp dịch vụ kiểm thử phần mềm. Không hài lòng với kết quả đạt được, ông tiếp tục phát triển lĩnh vực kiểm thử phần mềm theo hướng tự động hóa. Rất nhanh chóng, LogiGear đã trở thành công ty hàng đầu thế giới về kiểm thử phần mềm. Khách hàng của LogiGear là những công ty thuộc Fortune 500 như Google, Cisco, McAfee... Ông Hùng được mời đi huấn luyện về kiểm thử phần mềm ở khắp nơi.
“Tôi chọn VN”
Năm 2001, khi kinh tế Mỹ suy thoái, LogiGear mất rất nhiều hợp đồng và mất đến 80% doanh số chỉ trong vòng một năm. “Các doanh nghiệp đều theo hướng đi tìm các thị trường tiềm năng để thuê gia công. Người ta đề nghị tôi đến Ấn Độ, nhưng tôi chọn VN” - ông Hùng nói.
Sau 20 năm xa xứ, ông Hùng đã về VN tuyển chọn nhân sự cho dự án xây dựng trung tâm kiểm thử tự động hóa. LogiGear VN được thành lập năm 2005. Ông Hùng chia sẻ: “Tôi muốn đẩy mạnh ngành kiểm thử phần mềm ở VN để người ta thấy VN là một mảnh đất tuyệt vời”.
Năm 2006, ông bắt đầu hợp tác với các trường ĐH để đào tạo nhân lực. “Tôi muốn khi người ta cần lập trình viên giỏi thì đến Ấn Độ, Trung Quốc, còn kiểm thử giỏi thì đến VN” - ông Hùng tự tin. Khởi đầu từ sự hợp tác với Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG TP.HCM), đến nay đã có rất nhiều trường ĐH trên toàn quốc đưa kiểm thử phần mềm vào chương trình học ngành công nghệ thông tin theo chuẩn của LogiGear.
“Để ngành kiểm thử phát triển phải tạo ra một cộng đồng giỏi nghề và tiếp thị ra thế giới”. Nói là làm, ông Hùng lên kế hoạch tổ chức hội nghị quốc tế VISTACon về kiểm thử phần mềm. “Sự kiện này tạo cơ hội tiếp cận với các chuyên gia giỏi của thế giới, đồng thời quảng bá cho người nước ngoài thấy VN có những con người rất tài”. Sau hơn một năm chuẩn bị và thực hiện, VISTACon 2010 đã thành công hơn mong đợi.
Nói về tiềm năng của ngành kiểm thử phần mềm ở VN, ông Hùng lạc quan cho biết TP.HCM thuộc sáu thành phố phát triển nhất thế giới về ngành này, trong khi thị trường kiểm thử phần mềm toàn cầu có tổng giá trị mỗi năm ước chừng 13 tỉ USD. Nghề này nếu được đào tạo đúng bài bản sẽ phát triển rất nhanh, thu nhập cũng khá...
Sau VISTACon 2010, ông Hùng lại vội vã với một kế hoạch đi lưu diễn nhạc jazz ở Tây Ban Nha. Có lẽ ít người biết ông chủ LogiGear là tay đàn guitar và vocal trong dàn nhạc nổi tiếng San Francisco Bay Jazz. Ông nói vui không thể bỏ nghề đàn vì đã nuôi ông khi dotcom khủng hoảng.
Mang phong cách tùy hứng và ngẫu hứng ứng biến của nhạc jazz vào xử lý công việc là lời tự nhận xét của ông Hùng. Nhưng những người đã tiếp xúc với ông, đối tác, nhân viên đều có nhận xét chung rằng ông là một người rất chu toàn và uy tín trong công việc. Triết lý sống của ông thật đơn giản: làm hết sức cho điều mình muốn làm. Nhìn lại chặng đường đã qua ông bảo ông rất hạnh phúc với con đường đã chọn.
Tìm lỗi và thẩm định
Chiếm 30-40% trong quy trình phát triển phần mềm, kiểm thử phần mềm là khảo sát thực tiễn sản phẩm, dịch vụ phần mềm trong đúng môi trường sẽ triển khai nhằm tìm kiếm các lỗi hoặc thẩm định xem hệ thống phần mềm có đáp ứng các yêu cầu hay không để bảo đảm tối ưu hiệu quả làm việc.
Nghề kiểm thử đòi hỏi tính cẩn thận, tỉ mỉ, sự trung thực bởi nắm được những lỗ hổng của công nghệ, sản phẩm mới.
HỒNG NHUNG
(Nguồn: Tuổi Trẻ)
Friday, November 12, 2010
Sài Gòn sáng nắng chiều mưa
Sáng nắng đẹp, chiều mưa dầm là một nét đặc trưng của cô gái Sài Gòn nũng nịu, hình ảnh này đã đi vào văn chương, thơ ca và cả cuộc sống thường ngày nữa. Người ta thường ví con gái với kiểu thời tiết này, vì tính khí con gái hay thay đổi thất thường. Dĩ nhiên, đó cũng là một nét dễ thương của con gái. Nhưng không phải ngày nào Sài Gòn cũng có mưa, vẫn có những tháng nắng nóng cháy da cháy thịt như hiện nay. Độ “hot” của thời tiết nhiều khi lấn át cả các ngôi sao giải trí. Có một anh Khoai Tây nói với tui là anh ta chưa bao giờ trải nghiệm kiểu thời tiết 96% độ ẩm trong đời, mặc dù anh ấy ở xứ sở sương mù hẳn hoi. Nhận định của anh ấy làm tui cũng cảm thấy ngạc nhiên vì nét đặc trưng này của Sài Gòn, đó là độ ẩm cao.
Thời tiết Sài Gòn lạ và khắt nghiệt là vậy, mà không hiểu sao khi xa ai cũng nhớ. Nhớ những buổi sáng trời nắng đẹp lạ lùng, nhớ những buổi chiều thoáng đãng sau cơn mưa, nhớ con gái Sài Gòn sáng là nắng, chiều là mưa. Nhớ cà phê, gốc phố, con đường. Nhớ bạn bè, đồng nghiệp từ khắp mọi miền đất nước về đây lập nghiệp, sinh sống mang theo biết bao nhiêu là thói quen, phương ngữ, và những món ăn ngon.
Bạn có bao giờ cảm thấy yêu cơn mưa Sài Gòn chưa? Tất nhiên, không phải là cơn mưa trong một buổi chiều kẹt xe và ngập nước (thật không có gì phá hỏng sự lãng mạn tốt cho bằng). Nhưng những cơn mưa bên bậu cửa sổ hoặc trong một quán cà phê yêu thích thì lại hoàn toàn khác. Nhịp sống hối hả bổng nhiên chậm lại trong cái khí trời se se lạnh, là lúc mà người ta có thể tự do thả hồn theo hạt mưa rơi rơi ngoài mái hiên, hồi tưởng về những ký ức đẹp, hoặc là vẽ cho ra mình một tương lai đầy mơ ước. Lúc đó tui thường cảm thấy như tâm hồn mình được tắm mát và được gột rửa hết mọi muộn phiền.
Còn đối với thời tiết nắng nóng, Saigonese (người Sài Gòn) rất linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp, này nhé:
(Nguồn: Saigonsangnangchieumua blog)
Thời tiết Sài Gòn lạ và khắt nghiệt là vậy, mà không hiểu sao khi xa ai cũng nhớ. Nhớ những buổi sáng trời nắng đẹp lạ lùng, nhớ những buổi chiều thoáng đãng sau cơn mưa, nhớ con gái Sài Gòn sáng là nắng, chiều là mưa. Nhớ cà phê, gốc phố, con đường. Nhớ bạn bè, đồng nghiệp từ khắp mọi miền đất nước về đây lập nghiệp, sinh sống mang theo biết bao nhiêu là thói quen, phương ngữ, và những món ăn ngon.
Bạn có bao giờ cảm thấy yêu cơn mưa Sài Gòn chưa? Tất nhiên, không phải là cơn mưa trong một buổi chiều kẹt xe và ngập nước (thật không có gì phá hỏng sự lãng mạn tốt cho bằng). Nhưng những cơn mưa bên bậu cửa sổ hoặc trong một quán cà phê yêu thích thì lại hoàn toàn khác. Nhịp sống hối hả bổng nhiên chậm lại trong cái khí trời se se lạnh, là lúc mà người ta có thể tự do thả hồn theo hạt mưa rơi rơi ngoài mái hiên, hồi tưởng về những ký ức đẹp, hoặc là vẽ cho ra mình một tương lai đầy mơ ước. Lúc đó tui thường cảm thấy như tâm hồn mình được tắm mát và được gột rửa hết mọi muộn phiền.
Còn đối với thời tiết nắng nóng, Saigonese (người Sài Gòn) rất linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp, này nhé:
- Ngồi lì trong văn phòng (với điều kiện là văn phòng có máy lạnh)
- Cà phê máy lạnh / sân vườn / bờ sông
- Đi bơi (nên đến hồ bơi, không nên chọn kênh rạch)
- Câu cá giải trí ở Thanh Đa
(Nguồn: Saigonsangnangchieumua blog)
Wednesday, November 10, 2010
Đạo đức nghề CNTT: Một học phần bị bỏ quên
Trong khi chương trình đào tạo CNTT ở nhiều nước đều có những học phần về nghề nghiệp CNTT, thì các chương trình tương đương ở nước ta chưa có và chưa coi trọng nội dung quan trọng này.
Dạy nghề, chưa dạy đạo đức làm nghề
Những năm gần đây, chúng ta thấy ngày một nhiều những thông tin về vi phạm bản quyền phần mềm, hacker lộng hành, cá độ bóng đá trên Internet, tung tin thất thiệt trên Internet, đưa lên mạng hình ảnh đồi truỵ, đặc biệt có vụ phải ra tòa và thủ phạm là sinh viên một trường ĐH chuyên ngành CNTT. Những hành vi tội phạm như ăn cắp tiền trên mạng, lừa đảo mua bán trên mạng, phát tán virus... cũng xuất hiện ngày một nhiều.
Trong quá trình hành nghề, nhiều hành vi của một bộ phận trong giới CNTT gây lắm điều phải suy nghĩ. Nhiều hành vi trong kinh doanh, đấu thầu giải pháp công nghệ, thực hiện các dự án CNTT, trong đào tạo, quản lý, chỉ đạo với tư cách là CIO... nếu thật nghiêm khắc để đánh giá thì có những dấu hiệu vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Tình hình nêu trên đặt ra một yêu cầu cho việc đào tạo nhân lực CNTT: ngoài phần kiến thức và kỹ năng còn phải có phần về nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, nhằm trang bị cho người học những hành trang cần thiết cho quá trình hành nghề, tăng tính trong sáng, minh bạch và bớt đi những hành vi phi đạo đức khi hành nghề.
Trong chương trình đào tạo CNTT ở nước ta nói chung, rất ít trường quan tâm tới vấn đề nghề nghiệp CNTT. Rải rác có trường tổ chức một số buổi để sinh viên làm quen với doanh nghiệp (DN) trong ngành, tuy rất bổ ích nhưng không thể thay thế những môn học có cơ sở lý luận, chưa nói đến những vấn đề có tính triết lý trong nghề nghiệp.
So sánh với nước ngoài
Trong chương trình khung trình độ cao đẳng nghề "Lập trình máy tính" ban hành theo quyết định số 55/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 23/5/2008 của bộ trưởng bộ Lao Động - Thương Binh và Xã Hội, người được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề cần "có nhận thức đúng về đường lối xây dựng và phát triển đất nước, hiến pháp và pháp luật, ý thức được trách nhiệm bản thân về lao động, có tác phong vươn lên và tự hoàn thiện, có trách nhiệm, thái độ ứng xử, giải quyết vấn đề nghiệp vụ hợp lý, có lòng yêu nghề, và ý thức đầy đủ với cộng đồng, xã hội".
|
Tuy nhiên, trong các môn học của chương trình khung này, những nội dung đó chỉ có thể hy vọng đáp ứng ở một số môn học như: Chính trị - 90 giờ; Pháp luật - 30 giờ; Thực tập sản xuất (mã MD26) - 240 giờ; Thực tập sản xuất (mã MD31) - 360 giờ; trong tổng số 3.165 giờ học. Với bằng tốt nghiệp trung cấp nghề "Lập trình máy tính" theo quyết định trên, những yêu cầu về nghề nghiệp cũng được hy vọng vào các môn chính trị, pháp luật... với thời gian ít hơn: chính trị 30 giờ, pháp luật 15 giờ. Nhưng những môn học như chính trị, nếu dạy như từ trước tới nay thì khó có nội dung đáp ứng những yêu cầu về nghề nghiệp. Chương trình khung một số chuyên ngành thuộc CNTT của các trường ĐH đã đăng trên trang cũng chưa có chương trình nào có môn học về nghề nghiệp CNTT.
Trong khi đó, chương trình đào tạo CNTT ở nhiều nước đều có những học phần về nghề nghiệp CNTT. Chẳng hạn, theo chương trình của ACM thì chuyên ngành ứng dụng CNTT có 13 học phần, trong đó có một số học phần như: Cơ sở của CNTT (Information Technology Fundamentals - ITF) có khung 23 giờ (ngoài giờ lý thuyết còn có giờ thực hành, giờ tự học); Quản trị thông tin (Information Management-IM) có 34 giờ; Toán học và thống kê cho CNTT (Mathematic and Statistics for IT-MS) có 38 giờ; Mạng (Networking - NET) có 22 giờ; Hệ thống web và công nghệ (Web Systems and Technologies - WS) có 21 giờ; Xã hội và nghề nghiệp CNTT (Social and Professional Issues - SP) có 23 khung giờ. Học phần này đề cập những vấn đề: luật (CNTT), nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp, sở hữu trí tuệ, lịch sử CNTT... Những chuyên ngành khác như SE, CS, IS, CE cũng đều có học phần về nghề nghiệp này.
Học gì, và học thế nào?
Học phần nghề nghiệp CNTT ở nước ta, chẳng hạn ở bậc đại học, nên có những môn học nào? Chúng tôi đề xuất một số nội dung:
1. Nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp CNTT: Triết lý về nghề nghiệp. Mô tả nghề nghiệp, chức danh nghề nghiệp, đặc trưng nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
2. Lịch sử phát triển CNTT: Lịch sử phát triển chung trên thế giới, lịch sử phát triển ở nước ta, lịch sử phát triển Internet...
3. Những chính sách, chủ trương cơ bản của Nhà Nước về CNTT.
4. Luật CNTT, luật giao dịch điện tử, luật sở hữu trí tuệ...
5. Giao tiếp và quan hệ đồng nghiệp trong môi trường làm việc. Khả năng thu hút đồng nghiệp, người cộng tác.
6. Kỹ năng trình bày bằng lời, bằng văn bản.
Trong chương trình đào tạo bậc đại học hiện nay có nhiều môn học thuộc nhóm kiến thức cơ sở bắt buộc, chiếm một thời lượng khá lớn, đặc biệt là các môn xã hội. Do phương pháp giảng dạy những môn này lạc hậu, không thu hút được sinh viên, dẫn đến tâm lý chán nản, học một cách đối phó. Tâm lý đó rất có thể lây lan khi sinh viên tiếp xúc với học phần nghề nghiệp CNTT. Cần có cách thiết kế nội dung môn học nghề nghiệp CNTT vừa có lý luận vừa có vận dụng thực tiễn, tăng thời lượng học theo tình huống, tổ chức thực tập ở các DN CNTT và ở các cơ sở ứng dụng CNTT... Nói tóm lại, phải có cách học khác, không thể chỉ lên lớp nghe giảng, ghi chép, về nhà học bài để thi!
NGUYỄN LÃM
(Nguồn: PCWorld Vietnam)
Trống rỗng
Đã bao giờ bạn rơi vào trạng thái này? Ắc hẳn cũng có ít nhiều lần, một cảm giác thật lạ. Khi ấy ta như bị đóng băng không là hoàn toàn, vì vẫn có thể cử động, vẫn có thể thở, vẫn có thể quan sát mọi vật chung quanh, nhưng chỉ có suy nghĩ là bất động… Vào mỗi lúc ấy, ta dường như cảm thấy lạnh lẽo, một hơi lạnh từ đâu tới rồi lan vào người. Và sau đó là se người lại, cảm giác chỉ còn mình ta. Mọi thứ xung quanh lúc ấy như trái tim, khối óc,.. có thể hoạt động bình thường, nhưng dường như chỉ có thông số của suy nghĩ thì dừng lại ở mức 0. Thật nguy hiểm, vì nếu một yếu tố bên ngoài nào tiếp cận với “nguồn suy nghĩ” trong ta lúc này, ta sẽ trở nên yếu đuối dần đi. Nên thường khi ấy, ta chọn một nơi thích hợp chỉ có một mình để ẩn nấu trong trạng thái này, đấy là trống rỗng.
Cảm giác trống rỗng thật kì lạ, khi ấy ta thường nhìn chằm chằm vào một điểm cố định, nhưng bản thân đôi khi không rõ đấy là gì, vì suy nghĩ lúc ấy tạm đóng băng để có thể phân tích ra những thứ trước mắt mình. Trạng thái ấy cứ như vậy tồn tại vài giây, vài phút, hoặc thậm chí là vài tiếng đồng hồ sau đấy, khi trống rỗng bị phá vỡ, mọi cảm xúc như chợt trào ra, tuôn ra đột ngột không sao ngăn lại nổi… Và dường như suy nghĩ mượn giọt nước mắt để lọc lại mọi thứ, để sự ưu phiền lắng đọng tại trái tim hoặc tâm hồn. Khó chịu thật, nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn là cảm giác mang một sự hỗn độn vào người, mọi thứ trong ta lúc ấy như quay cuồng vô định.
Khi trống rỗng, bạn không muốn làm gì cả, không muốn ai nhìn thấy cả,… và bạn thu mình vào đâu đấy, nơi mà chỉ có bạn đối diện với trạng thái này, nơi không đủ ánh sáng để bạn nhìn rõ sự việc. Nhưng trống rỗng cũng là một khoảng lặng, vì khi ấy mọi suy nghĩ đã tạm dừng lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, có thể nó được ghì chặt bởi một thứ gì đấy, đến khi không còn kìm nén được, nó sẽ bùng nổ và thật tế không thoát ra được. Những điều ghìm nén ấy, lúc này sẽ như chạy qua lại để bạn sàng lọc lấy những gì nên giữ lại để ra một quyết định cho nguyên nhân. Và đôi khi sự phát nổ này làm cho bạn đau, đau tê tái hay là cảm giác đau dần theo mức độ từ thấp nhất và lớn dần lên. Thật tệ khi phải đối diện với thực tại lúc này đây. Sau mỗi giây phút này, suy nghĩ bắt đầu trở lại và có thể tích cực hoặc tiêu cực hoặc chỉ là một quyết định tạm thời không mang đến lợi hay hại.
Đôi khi nỗi đau khiến bạn tê tái, và lạnh buốt, khi ấy trái tim bạn đang bị rỉ máu. Hãy xoa dịu nó tạm thời bằng những khoảng lặng, đấy sẽ là những liều thuốc giảm đau tạm thời, tạm thời cho cái vết thương kia và tạm thời giữ ấm cho trái tim nhỏ bé này.
Thật ra, nếu trong trạng thái trống rỗng, không hẳn rằng bạn sẽ cảm thấy hết mọi thứ trong khoảng khắc ấy, chỉ khi nào nó thật sự bùng nổ, khi mà vật vô hình nào đấy không còn đủ sức ghìm chặt nỗi đau của bạn nữa, lúc ấy bạn sẽ hiểu rõ hơn về sự trống rỗng quanh mình. Không ai muốn mãi đối diện với nỗi cô đơn cả, một sự che chở ấm áp sẽ khiến vết thương lành dần. Hi vọng rằng mọi nỗi đau sẽ tìm thấy liều thuốc (quyết định) để chữa lành dần cho tâm hồn, cũng như trái tim ta.
Nhưng trống rỗng không phải khi chìm vào những nỗi đau hỗn độn ta mới gặp phải. Một sự trống trãi cũng mang đến khoảng không trống rỗng...
(Nguồn: Lượm từ internet trong lúc TRỐNG RỖNG).
Cảm giác trống rỗng thật kì lạ, khi ấy ta thường nhìn chằm chằm vào một điểm cố định, nhưng bản thân đôi khi không rõ đấy là gì, vì suy nghĩ lúc ấy tạm đóng băng để có thể phân tích ra những thứ trước mắt mình. Trạng thái ấy cứ như vậy tồn tại vài giây, vài phút, hoặc thậm chí là vài tiếng đồng hồ sau đấy, khi trống rỗng bị phá vỡ, mọi cảm xúc như chợt trào ra, tuôn ra đột ngột không sao ngăn lại nổi… Và dường như suy nghĩ mượn giọt nước mắt để lọc lại mọi thứ, để sự ưu phiền lắng đọng tại trái tim hoặc tâm hồn. Khó chịu thật, nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn là cảm giác mang một sự hỗn độn vào người, mọi thứ trong ta lúc ấy như quay cuồng vô định.
Khi trống rỗng, bạn không muốn làm gì cả, không muốn ai nhìn thấy cả,… và bạn thu mình vào đâu đấy, nơi mà chỉ có bạn đối diện với trạng thái này, nơi không đủ ánh sáng để bạn nhìn rõ sự việc. Nhưng trống rỗng cũng là một khoảng lặng, vì khi ấy mọi suy nghĩ đã tạm dừng lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, có thể nó được ghì chặt bởi một thứ gì đấy, đến khi không còn kìm nén được, nó sẽ bùng nổ và thật tế không thoát ra được. Những điều ghìm nén ấy, lúc này sẽ như chạy qua lại để bạn sàng lọc lấy những gì nên giữ lại để ra một quyết định cho nguyên nhân. Và đôi khi sự phát nổ này làm cho bạn đau, đau tê tái hay là cảm giác đau dần theo mức độ từ thấp nhất và lớn dần lên. Thật tệ khi phải đối diện với thực tại lúc này đây. Sau mỗi giây phút này, suy nghĩ bắt đầu trở lại và có thể tích cực hoặc tiêu cực hoặc chỉ là một quyết định tạm thời không mang đến lợi hay hại.
Đôi khi nỗi đau khiến bạn tê tái, và lạnh buốt, khi ấy trái tim bạn đang bị rỉ máu. Hãy xoa dịu nó tạm thời bằng những khoảng lặng, đấy sẽ là những liều thuốc giảm đau tạm thời, tạm thời cho cái vết thương kia và tạm thời giữ ấm cho trái tim nhỏ bé này.
Thật ra, nếu trong trạng thái trống rỗng, không hẳn rằng bạn sẽ cảm thấy hết mọi thứ trong khoảng khắc ấy, chỉ khi nào nó thật sự bùng nổ, khi mà vật vô hình nào đấy không còn đủ sức ghìm chặt nỗi đau của bạn nữa, lúc ấy bạn sẽ hiểu rõ hơn về sự trống rỗng quanh mình. Không ai muốn mãi đối diện với nỗi cô đơn cả, một sự che chở ấm áp sẽ khiến vết thương lành dần. Hi vọng rằng mọi nỗi đau sẽ tìm thấy liều thuốc (quyết định) để chữa lành dần cho tâm hồn, cũng như trái tim ta.
Nhưng trống rỗng không phải khi chìm vào những nỗi đau hỗn độn ta mới gặp phải. Một sự trống trãi cũng mang đến khoảng không trống rỗng...
(Nguồn: Lượm từ internet trong lúc TRỐNG RỖNG).
Thursday, October 21, 2010
Chuyện xảy ra vào chiều nay
Người đàn ông trung niên bước vào tiệm bánh sinh nhật và nói với cậu bé tại quầy: “Tôi muốn đặt chiếc bánh sinh nhật có viết chữ để mừng sinh nhật NGƯỜI TÔI YÊU”.
- Trình bày thế nào ạ? – cậu bé hỏi.
- Cậu viết thế này: “Em không già đi”, phía trên, “Mà em còn trẻ lại”, phía dưới.
Thằng bé lấy bút ghi chép cẩn thận rồi nói:
- Chiều ông ghé lại lấy, con sẽ làm thật đẹp và cẩn thận cho ông.
3 giờ chiều ngày hôm nay, tại Reboot Coffee, khi khách khứa đã ngồi vào bàn đầy đủ, người đàn ông trung niên mang bánh đặt giữa bàn, trịnh trọng mở hộp bánh ra.
Và đây là dòng chữ trên chiếc bánh: “Em không già đi phía trên mà còn trẻ lại phía dưới”.
- Trình bày thế nào ạ? – cậu bé hỏi.
- Cậu viết thế này: “Em không già đi”, phía trên, “Mà em còn trẻ lại”, phía dưới.
Thằng bé lấy bút ghi chép cẩn thận rồi nói:
- Chiều ông ghé lại lấy, con sẽ làm thật đẹp và cẩn thận cho ông.
3 giờ chiều ngày hôm nay, tại Reboot Coffee, khi khách khứa đã ngồi vào bàn đầy đủ, người đàn ông trung niên mang bánh đặt giữa bàn, trịnh trọng mở hộp bánh ra.
Và đây là dòng chữ trên chiếc bánh: “Em không già đi phía trên mà còn trẻ lại phía dưới”.
. . : : : Happy Birthday to Thẩm Nguyễn : : : . .
Sunday, September 19, 2010
Nguy cơ từ “Internet không bao giờ quên”
Những dữ liệu cá nhân đưa lên Internet hằng ngày không hẳn là điều tốt. Nó như con dao hai lưỡi mà ngày nào đó sẽ quay lại “đâm” vào bạn, buộc nhiều người phải thay tên đổi họ để thoát khỏi quá khứ kỹ thuật số mang đầy thông tin cá nhân họ đã đưa lên mạng.
![]() |
“Xóa thời niên thiếu” không đơn giản như động tác bấm phím |
Lời cảnh báo trên của Eric Schmidt, giám đốc điều hành Google - cỗ máy tìm kiếm thông tin trên mạng lớn nhất thế giới hiện đang tạo ra doanh thu hàng tỉ USD mỗi năm bằng cách hoàn thiện công nghệ tích trữ, lưu trữ và phục hồi thông tin của người sử dụng - đã nhóm lên một cuộc tranh cãi rộng hơn về một thế giới “không bỏ quên bất cứ điều gì”.
Câu chuyện của Stacy Snyder
Stacy Snyder là một ví dụ điển hình về việc không kiểm soát được những thông tin cá nhân của mình sau khi đã tung lên mạng. Năm 2006, Snyder - khi đó 25 tuổi và đang là giáo viên tập sự Trường trung học Conestoga Valley ở hạt Lancaster, Pennsylvania, Mỹ - đã đưa lên trang MySpace của mình bức ảnh chụp cô tại một bữa tiệc, trong đó cô đội mũ cướp biển, tay cầm ly rượu với chú thích “tên cướp biển say xỉn” bên dưới bức ảnh.
Chuyện tưởng như một trò đùa vui trong bữa tiệc bạn bè lại trở nên nghiêm trọng khi người giám sát của Snyder tại trường trung học tìm thấy bức ảnh này trong một lần lục kiếm thông tin về cô trên mạng.
Ban giám hiệu trường cho rằng bức ảnh của Snyder “không phù hợp với tiêu chuẩn nghề nghiệp” của một giáo viên và hiệu trưởng Trường đại học Giáo dục Millersville nơi Snyder theo học cáo buộc cô khuyến khích học trò dưới tuổi mình uống rượu. Hậu quả là trước lễ tốt nghiệp đại học, Snyder đã không được cấp bằng dù cô hoàn thành các kỳ thi cũng như giai đoạn thực tập và học bạ không có vấn đề gì.
Snyder đã đâm đơn kiện Trường Millersville về chuyện phạt một hành vi trong quá khứ và hoàn toàn hợp pháp của cô. Nhưng năm 2008, một thẩm phán bang đã bác bỏ thỉnh cầu của Snyder với lý do tấm ảnh của cô không phục vụ tốt cho công việc trong một ngành nghề liên quan đến công chúng mà cô đang theo đuổi. Cuối cùng Snyder đành ngậm ngùi từ giã giấc mơ mà cô theo đuổi suốt bốn năm tại trường đại học chỉ vì một sơ suất của mình.
Câu chuyện của Snyder đặt ra cho người sử dụng Internet một thách thức mà hàng triệu người trên toàn cầu đang đối mặt: làm thế nào để có được cuộc sống tốt nhất trong một thế giới ghi lại mọi thứ và không bỏ quên thứ gì trên Internet khi mỗi hình ảnh ta đưa lên mạng, những thông tin cá nhân mới nhất, những bài viết trên blog, trên Twitter, những câu chuyện phiếm, tâm sự vụn vặt hằng ngày... có thể được lưu giữ mãi mãi?
Với những trang như LOL Facebook Moments chuyên thu thập và chia sẻ những sự việc cá nhân gây sốc trích từ những người sử dụng Facebook, rõ ràng những thông tin cá nhân này luôn được nhiều người lục tìm trên mạng nhiều tháng, nhiều năm sau này. Đã có trường hợp một thiếu nữ Anh bị sa thải chỉ vì một hôm ông chủ tìm thấy trên trang Facebook của cô tâm sự rằng: “Tôi quá buồn chán” (!).
Nguy cơ đầy rẫy
Trước sự phát triển như vũ bão của các mạng xã hội, hiện có khoảng 600 triệu người có lý lịch cá nhân trên mạng. Facebook đã vượt qua MySpace năm 2008 để trở thành địa chỉ mạng xã hội lớn nhất với khoảng 500 triệu thành viên, ước tính những người sử dụng Facebook dành mỗi tháng khoảng 500 tỉ phút cho mạng này và chia sẻ hơn 25 tỉ nội dung gồm những câu chuyện mới, blog và hình ảnh. Gần đây, Library Congress - thư viện lớn nhất thế giới hiện nay - thông báo sẽ lưu trữ vĩnh viễn toàn bộ những gì trên Twitter kể từ năm 2006. Hiện Twitter có hơn 100 triệu thành viên.
Một nguy cơ rất rõ ràng là mọi người, từ bạn bè thân hữu đến những nhà tuyển dụng và cả kẻ thù, đều có thể tiếp cận hình ảnh, video và blog của các cá nhân chỉ với vài cú nhấp chuột đơn giản. Theo một điều tra của Microsoft thực hiện gần đây, 75% chuyên gia nhân sự và nhà tuyển dụng Mỹ tìm hiểu thông tin trên mạng, sử dụng nhiều địa chỉ khác nhau để nghiên cứu kỹ về ứng viên trước - bao gồm những công cụ tìm kiếm, mạng xã hội, hình ảnh và video, trang web cá nhân, Twitter và những địa chỉ chơi game. 70% nhà tuyển dụng Mỹ loại ứng viên chỉ vì lý do đăng những hình ảnh hoặc có những cuộc thảo luận, tranh cãi giữa những thành viên mạng mà họ cho là không thích hợp.
Trường hợp của Snyder là lời cảnh báo đối với những bạn trẻ đang muốn làm một nghề mà mình đeo đuổi. Hàng triệu bạn trẻ, những người đang nộp đơn xin việc, sẽ thấy rằng có quá nhiều chi tiết trên mạng gây khó khăn cho họ đối với nhà tuyển dụng mà giờ họ không thể gỡ xuống hoặc đã quá muộn để gỡ xuống. “Internet không bao giờ quên” là một sự đe dọa, ngăn cản chúng ta vượt qua quá khứ để tiến đến tương lai cho những khởi đầu mới.
Theo dự đoán của các chuyên gia mạng, trong tương lai gần những công cụ tìm kiếm trên Internet chắc chắn sẽ được nối với các công cụ tìm kiếm tập hợp mạng xã hội để nối dữ liệu từ các nguồn trên mạng như đóng góp chính trị, blog, video trên YouTube, những trang web bình luận, bất động sản và album ảnh. Những tập hợp này sẽ tiến đến việc xếp hạng danh tiếng công chúng và cá nhân giống như trang Unvarnished, thậm chí xếp hạng tín nhiệm như cha mẹ tốt, những cuộc hẹn hò tốt, đạo đức và gia cảnh, nhà tuyển dụng tốt, rủi ro bảo hiểm tốt...
Có câu nói rằng luôn có cơ hội lần hai. Nhưng sự thật là đối với một ngân hàng trí nhớ vĩnh viễn ngày càng mở rộng của web, sẽ khó có những cơ hội lần hai để thoát khỏi một bức thư tươi rói trong quá khứ kỹ thuật số của bạn.
Phản ứng và giải pháp
Nỗi lo về việc Internet lưu giữ quá nhiều thông tin cá nhân tăng mạnh trong năm nay, sau khi Facebook đưa ra cải tiến mới khiến thông tin của người sử dụng được đưa ra công chúng nhiều hơn. Tháng 12-2009, Facebook thông báo nhiều thông tin cá nhân của người sử dụng trước đó, bao gồm bạn bè, tình trạng hôn nhân, quan hệ gia đình... sẽ là thông tin “công chúng” chứ không phải cá nhân.
Tháng 4 năm nay, Facebook giới thiệu hệ thống tương tác Open Graph chia sẻ thông tin trong trang web cá nhân của bạn và bạn bè với các địa chỉ đối tác bạn đến. Điều này vấp phải sự chỉ trích kịch liệt từ người sử dụng, các nhà lập pháp và những người vận động chống lại việc Internet tác động đến đời tư của cá nhân. Bốn thượng nghị sĩ dân chủ Mỹ đã viết thư cho ông chủ Facebook Mark Zuckerberg diễn tả lo lắng về vấn đề này.
Khắp thế giới, từ các nhà chính trị, học giả và các cá nhân đang tìm cách phản ứng lại thách thức duy trì kiểm soát nhận diện của cá nhân trong một thế giới kỹ thuật số “không bao giờ quên”.
Tháng 2 năm nay, Liên minh châu Âu (EU) tài trợ chiến dịch “Think B4 U post” (Think before you post: Suy nghĩ kỹ trước khi bạn đưa thông tin lên) kêu gọi bạn trẻ cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra khi công khai hình ảnh của họ và bạn bè cho công chúng mà không suy nghĩ kỹ và chưa xin phép họ. Vào tháng 4-2010, bốn sinh viên Đại học New York đã lên kế hoạch xây dựng mạng xã hội Diaspora miễn phí, trong đó không bắt buộc người sử dụng cam kết về việc cho phép mạng sử dụng những thông tin cá nhân của họ.
Ở Mỹ, một nhóm các nhà khoa học, học giả luật và chuyên gia mạng đang tìm cách tạo lại khả năng “quên” của kỹ thuật số. Công ty tư vấn ReputationDefender (Bảo vệ danh tiếng) là một giải pháp tạm thời cho việc đối phó với “thế giới không quên” của Internet.
ReputationDefender do một sinh viên luật Đại học Harvard thành lập, chuyên cung cấp dịch vụ làm sạch hình ảnh trên mạng. Hiện ReputationDefender có khách hàng tại hơn 100 quốc gia và là công ty thành công nhất trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến danh tiếng của người sử dụng được đưa lên Facebook và Google. Công ty sẽ giám sát danh tiếng của khách hàng trên mạng, liên lạc với các địa chỉ web và yêu cầu gỡ bỏ những mục nhạy cảm.
Với sự giúp đỡ của công nghệ tìm kiếm, ReputationDefender có thể tấn công dồn dập các trang web bằng những thông tin tích cực hoặc vô hại về khách hàng của mình, hoặc tạo ra những trang web mới hay nhân lên các đường dẫn đến trang web hiện tại để đảm bảo hiện ra những thông tin tích cực tại hàng đầu và đưa những trang web tiêu cực xuống những trang sau của Google.
Trong khi đó, nhiều nhà lập pháp Mỹ bắt đầu suy nghĩ những luật mới giúp kiểm soát đời tư cá nhân trên Internet được chặt chẽ hơn. Điều này chắc còn lâu mới thành hiện thực, nhưng trước hết thay vì đâm đơn kiện như trường hợp của Stacy Snyder sau khi sự đã rồi hay thuê một công ty dọn sạch “đống rác” của chúng ta trên mạng, mỗi cá nhân cần phải tự bảo vệ mình và ý thức về việc đưa thông tin gì lên Internet.
Rick Ferguson, một chuyên gia an ninh mạng ở Trend Micro, đã nói: “Điều mà mọi người không nhận ra là khi đưa thông tin gì lên mạng, bạn đã mất quyền sở hữu và kiểm soát thông tin đó ngay lập tức. Ai cũng có thể tải về, lưu trữ và phát tán thông tin đó. Nó vượt ngoài tầm tay của bạn”.
-HOÀI ANH
(Theo New York Times, Independent)
Nguồn: Tuổi Trẻ Cuối Tuần
Monday, September 13, 2010
Họp trù bị lần 1 tiến tới thành lập CLB Nhà quản lý CNTT
Ngày 10/9/2010, tại TP.HCM, Tạp chí Thế Giới Vi Tính - PC World Vietnam và các nhà quản lý CNTT của nhiều doanh nghiệp đã họp trù bị lần 1 nhằm tiến tới thành lập CLB Nhà quản lý CNTT.
Câu lạc bộ (CLB) Nhà quản lý CNTT có mục tiêu khẳng định giá trị của CNTT như một thành phần chiến lược trong doanh nghiệp, tổ chức. CLB sẽ tạo điều kiện để cộng đồng quản lý CNTT hoạt động có tổ chức, xây dựng môi trường giao lưu, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm quản lý CNTT giữa các nhà quản lý CNTT với nhau; giữa các nhà quản lý CNTT với các nhà quản lý doanh nghiệp; thành lập “lò luyện công” của người quản lý CNTT…
Tạp chí Thế Giới Vi Tính sẽ đóng vai cầu nối, xúc tiến thành lập CLB Nhà quản lý CNTT với mong muốn để CLB trở thành “đại sứ” của cộng đồng quản lý CNTT Việt Nam trong 5 năm tới. Lợi ích mà CLB mang lại cho cộng đồng quản lý trước mắt sẽ bao gồm: CLB là “lớp học” để trao đổi chuyên môn (qua website hay ngoại tuyến); CLB là “Bộ não tập thể” để giải quyết những khó khăn về quản lý CNTT ở Việt Nam; Tinh thần của người quản lý CNTT được chăm lo nhiều hơn; Giá trị của CNTT tác động đến chiến lược phát triển doanh nghiệp; Xuất hiện, bồi dưỡng lớp quản lý CNTT kế thừa; Hình thành “sổ tay” (tập hợp các kiến thức và kỹ năng hữu ích) cho cộng đồng quản lý CNTT…
Đối tượng tham gia CLB Nhà quản lý CNTT dự kiến là các giám đốc CNTT, Trưởng phòng quản lý CNTT của doanh nghiệp, tổ chức; Nhà nghiên cứu/chuyên gia CNTT; Giám đốc điều hành doanh nghiệp CEO; Giám đốc, trưởng phòng tài chính - CFO; Trưởng phòng nghiên cứu, phát triển doanh nghiệp; Nhà phát triển; Giảng viên CNTT; Sinh viên CNTT. Trong phiên họp trù bị lần 1, đã có đại diện quản lý CNTT từ các công ty như GlobalCyberSoft; Ví điện tử Payoo; Logigear; Hội Tin học TP.HCM; VDC2; TMA; Microsoft VN; Công ty đầu tư tài chính Vietnam Partner; Athena; Trung Nguyên; Bigbang...
Các đại biểu đã nghe trình bày về mục tiêu, tổ chức, cơ chế hoạt động, chương trình hoạt động; bàn bạc các chủ đề sinh hoạt ngoại tuyến cho năm 2011. CLB sẽ còn trù bị lần 2 trong tháng 10 để dự kiến ra mắt CLB vào tháng 11/2010.
-NHƯ DŨNG
Nguồn: http://www.pcworld.com.vn/articles/quan-ly/quan-tri/2010/09/1220822/hop-tru-bi-lan-1-tien-toi-thanh-lap-clb-nha-quan-ly-cntt/
Câu lạc bộ (CLB) Nhà quản lý CNTT có mục tiêu khẳng định giá trị của CNTT như một thành phần chiến lược trong doanh nghiệp, tổ chức. CLB sẽ tạo điều kiện để cộng đồng quản lý CNTT hoạt động có tổ chức, xây dựng môi trường giao lưu, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm quản lý CNTT giữa các nhà quản lý CNTT với nhau; giữa các nhà quản lý CNTT với các nhà quản lý doanh nghiệp; thành lập “lò luyện công” của người quản lý CNTT…
![]() |
Thành viên tương lai của CLB Nhà quản lý CNTT đang thảo luận các vấn đề cần làm trước mắt. |
Tạp chí Thế Giới Vi Tính sẽ đóng vai cầu nối, xúc tiến thành lập CLB Nhà quản lý CNTT với mong muốn để CLB trở thành “đại sứ” của cộng đồng quản lý CNTT Việt Nam trong 5 năm tới. Lợi ích mà CLB mang lại cho cộng đồng quản lý trước mắt sẽ bao gồm: CLB là “lớp học” để trao đổi chuyên môn (qua website hay ngoại tuyến); CLB là “Bộ não tập thể” để giải quyết những khó khăn về quản lý CNTT ở Việt Nam; Tinh thần của người quản lý CNTT được chăm lo nhiều hơn; Giá trị của CNTT tác động đến chiến lược phát triển doanh nghiệp; Xuất hiện, bồi dưỡng lớp quản lý CNTT kế thừa; Hình thành “sổ tay” (tập hợp các kiến thức và kỹ năng hữu ích) cho cộng đồng quản lý CNTT…
Đối tượng tham gia CLB Nhà quản lý CNTT dự kiến là các giám đốc CNTT, Trưởng phòng quản lý CNTT của doanh nghiệp, tổ chức; Nhà nghiên cứu/chuyên gia CNTT; Giám đốc điều hành doanh nghiệp CEO; Giám đốc, trưởng phòng tài chính - CFO; Trưởng phòng nghiên cứu, phát triển doanh nghiệp; Nhà phát triển; Giảng viên CNTT; Sinh viên CNTT. Trong phiên họp trù bị lần 1, đã có đại diện quản lý CNTT từ các công ty như GlobalCyberSoft; Ví điện tử Payoo; Logigear; Hội Tin học TP.HCM; VDC2; TMA; Microsoft VN; Công ty đầu tư tài chính Vietnam Partner; Athena; Trung Nguyên; Bigbang...
Các đại biểu đã nghe trình bày về mục tiêu, tổ chức, cơ chế hoạt động, chương trình hoạt động; bàn bạc các chủ đề sinh hoạt ngoại tuyến cho năm 2011. CLB sẽ còn trù bị lần 2 trong tháng 10 để dự kiến ra mắt CLB vào tháng 11/2010.
-NHƯ DŨNG
Nguồn: http://www.pcworld.com.vn/articles/quan-ly/quan-tri/2010/09/1220822/hop-tru-bi-lan-1-tien-toi-thanh-lap-clb-nha-quan-ly-cntt/
Thursday, September 9, 2010
Điều gì quyết định sự thành đạt?
Với câu hỏi: “Yếu tố nào quyết định sự thành đạt?”, nhiều người sẽ trả lời là trình độ chuyên môn. Thế nhưng nhiều hội đồng và ủy ban nghiên cứu quốc gia về điều này, từ Mỹ đến các nước châu Âu và Singapore lại đi đến kết luận: “70-80% sự thành đạt của người lao động phụ thuộc vào các kỹ năng mềm”. Đó là những kỹ năng liên quan đến trí thông minh cảm xúc, được đánh giá bằng hệ số EQ.
Kỹ năng mềm là những kỹ năng thuộc về tính cách và nhân cách con người, như sự tận tâm, kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng tư duy phân tích, suy xét, kỹ năng hợp tác trong công việc... Kỹ năng mềm (khác với kỹ năng cứng là hiểu biết về kiến thức khoa học) không mang tính chuyên môn, nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến sự thành đạt của con người.
Qua điều tra, nghiên cứu, Ủy ban Đào tạo và Phát triển của Mỹ đã xác định 13 kỹ năng cần có của người lao động trong thế kỷ 21 là: 1. Tư duy sáng tạo, 2. Có mục tiêu và động cơ, 3. Quan hệ, 4. Lãnh đạo, 5. Học hỏi, 6. Lắng nghe, 7. Thương lượng, 8. Thuyết trình và diễn giải ý tưởng, 9. Đảm bảo tính hiệu quả, 10. Phát triển cá nhân trong công việc, 11. Tìm giải pháp, giải quyết nhanh vấn đề, 12. Tự tôn về bản thân, và 13. Làm việc theo nhóm.Việc tổng hợp kết quả điều tra từ 36 công ty Đan Mạch và 269 công ty Mỹ đã đi đến kết luận về yêu cầu nhân lực trong thời đại toàn cầu hóa là: 1. Kỹ năng giao tiếp, 2. Kỹ năng làm việc theo nhóm, 3. Khả năng thích ứng với thay đổi về tổ chức và công việc, 4. Tư duy sáng tạo, 5. Tầm nhìn toàn cầu, 6. Kỹ năng phân tích, 7. Kỹ năng quản lý, 8. Phẩm chất cá nhân.
Từ tham khảo kết quả nghiên cứu của các nước và liên hệ với môi trường sống ở nước ta, có thể tạm rút ra những kỹ năng quan trọng nhất dẫn đến sự thành đạt trong tương lai là: 1. Kỹ năng tự học, 2. Kỹ năng giao tiếp, 3. Kỹ năng làm việc tập thể, 4. Kỹ năng phân tích, suy xét, 5. Kỹ năng sáng tạo, 6. Kỹ năng thương lượng, 7. Kỹ năng quản lý, lãnh đạo, 8. Kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, 9. Kỹ năng thuyết trình.
Là một giảng viên đại học đã tham gia đào tạo nhiều khóa, tôi nhận thấy phần lớn những cựu sinh viên thành đạt nhất thiết không phải là những sinh viên học giỏi nhất. Như vậy, học giỏi mới chỉ là yếu tố cần, nhưng chưa đủ để thành đạt vì cuộc sống còn đòi hỏi phải có những kỹ năng mềm tối cần thiết.
Trong thực tế ở nước ta, không ít người nông dân đã thành đạt nhờ những sáng kiến hữu ích từ sáng chế các loại máy hút bùn, lẩy hạt bắp, thu hoạch đậu phộng... đến xây cầu dây văng nông thôn hay di dời các công trình, nhà cửa như “thần đèn”. Có không ít doanh nhân thành đạt không phải trong lĩnh vực được đào tạo tại trường. Trên thế giới có nhiều nhà lãnh đạo, cả ở cấp quốc gia, chưa bao giờ được ngồi trên ghế giảng đường đại học. Tất cả những người đó thành đạt nhờ rèn luyện được những kỹ năng sống tuyệt vời để tự hoàn thiện bản thân.
Đáng mừng là trong những năm gần đây một số trường phổ thông và đại học đã bắt đầu đưa vào chương trình giảng dạy một số kỹ năng mềm. Tại TPHCM và Hà Nội, hàng loạt tổ chức huấn luyện kỹ năng sống ra đời, thu hút ngày càng đông học viên, gồm cả học sinh, sinh viên và người lao động, mặc dù học phí khá cao, có thể lên đến 2-3 triệu đồng cho một khóa học hai ngày. Hiện tượng đó chứng tỏ xã hội nhận thức ngày càng rõ hơn về tầm quan trọng của các kỹ năng mềm trong cuộc sống.
Điều đáng nói ở đây là cho đến nay các chương trình giáo dục và đào tạo từ phổ thông đến đại học của nước ta, mặc dù bị kêu là quá tải, nhưng vẫn chưa chú trọng đến việc giáo dục các kỹ năng rất cần thiết trong cuộc sống. Các chương trình vẫn theo xu hướng nhồi nhét kiến thức, bất chấp cuộc sống đang thay đổi ngày càng nhanh, càng sâu rộng và những kiến thức đúng ngày hôm nay có thể trở nên lỗi thời vào ngày mai. Phải chăng đó là khiếm khuyết cơ bản nhất thuộc về triết lý giáo dục? Nếu vậy thì bao giờ mới có sự điều chỉnh thích hợp?
Không ai phủ nhận việc tích lũy kiến thức càng nhiều càng tốt, nhưng cuộc sống vốn rất đa dạng đặt ra những yêu cầu cũng rất đa dạng đối với người lao động, không riêng gì kiến thức. Trong thời đại thông tin với tốc độ nhân đôi kiến thức của nhân loại chỉ trong vòng 10-15 năm, thì dạy bao nhiêu kiến thức cho đủ? Chỉ khi học sinh, sinh viên được trang bị tốt những kỹ năng sống thiết yếu, nhất là kỹ năng tự học để không ngừng tự cập nhật kiến thức mới và tự hoàn thiện mình, mới có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Sự giàu có về nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không phải là tài nguyên, mới là nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh. Vì vậy, rất cần xây dựng một triết lý giáo dục phù hợp với thời đại.
-TRẦN THƯỢNG TUẤN
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Kỹ năng mềm là những kỹ năng thuộc về tính cách và nhân cách con người, như sự tận tâm, kỹ năng giao tiếp và ứng xử, kỹ năng tư duy phân tích, suy xét, kỹ năng hợp tác trong công việc... Kỹ năng mềm (khác với kỹ năng cứng là hiểu biết về kiến thức khoa học) không mang tính chuyên môn, nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến sự thành đạt của con người.
Qua điều tra, nghiên cứu, Ủy ban Đào tạo và Phát triển của Mỹ đã xác định 13 kỹ năng cần có của người lao động trong thế kỷ 21 là: 1. Tư duy sáng tạo, 2. Có mục tiêu và động cơ, 3. Quan hệ, 4. Lãnh đạo, 5. Học hỏi, 6. Lắng nghe, 7. Thương lượng, 8. Thuyết trình và diễn giải ý tưởng, 9. Đảm bảo tính hiệu quả, 10. Phát triển cá nhân trong công việc, 11. Tìm giải pháp, giải quyết nhanh vấn đề, 12. Tự tôn về bản thân, và 13. Làm việc theo nhóm.Việc tổng hợp kết quả điều tra từ 36 công ty Đan Mạch và 269 công ty Mỹ đã đi đến kết luận về yêu cầu nhân lực trong thời đại toàn cầu hóa là: 1. Kỹ năng giao tiếp, 2. Kỹ năng làm việc theo nhóm, 3. Khả năng thích ứng với thay đổi về tổ chức và công việc, 4. Tư duy sáng tạo, 5. Tầm nhìn toàn cầu, 6. Kỹ năng phân tích, 7. Kỹ năng quản lý, 8. Phẩm chất cá nhân.
Từ tham khảo kết quả nghiên cứu của các nước và liên hệ với môi trường sống ở nước ta, có thể tạm rút ra những kỹ năng quan trọng nhất dẫn đến sự thành đạt trong tương lai là: 1. Kỹ năng tự học, 2. Kỹ năng giao tiếp, 3. Kỹ năng làm việc tập thể, 4. Kỹ năng phân tích, suy xét, 5. Kỹ năng sáng tạo, 6. Kỹ năng thương lượng, 7. Kỹ năng quản lý, lãnh đạo, 8. Kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, 9. Kỹ năng thuyết trình.
Là một giảng viên đại học đã tham gia đào tạo nhiều khóa, tôi nhận thấy phần lớn những cựu sinh viên thành đạt nhất thiết không phải là những sinh viên học giỏi nhất. Như vậy, học giỏi mới chỉ là yếu tố cần, nhưng chưa đủ để thành đạt vì cuộc sống còn đòi hỏi phải có những kỹ năng mềm tối cần thiết.
Trong thực tế ở nước ta, không ít người nông dân đã thành đạt nhờ những sáng kiến hữu ích từ sáng chế các loại máy hút bùn, lẩy hạt bắp, thu hoạch đậu phộng... đến xây cầu dây văng nông thôn hay di dời các công trình, nhà cửa như “thần đèn”. Có không ít doanh nhân thành đạt không phải trong lĩnh vực được đào tạo tại trường. Trên thế giới có nhiều nhà lãnh đạo, cả ở cấp quốc gia, chưa bao giờ được ngồi trên ghế giảng đường đại học. Tất cả những người đó thành đạt nhờ rèn luyện được những kỹ năng sống tuyệt vời để tự hoàn thiện bản thân.
Đáng mừng là trong những năm gần đây một số trường phổ thông và đại học đã bắt đầu đưa vào chương trình giảng dạy một số kỹ năng mềm. Tại TPHCM và Hà Nội, hàng loạt tổ chức huấn luyện kỹ năng sống ra đời, thu hút ngày càng đông học viên, gồm cả học sinh, sinh viên và người lao động, mặc dù học phí khá cao, có thể lên đến 2-3 triệu đồng cho một khóa học hai ngày. Hiện tượng đó chứng tỏ xã hội nhận thức ngày càng rõ hơn về tầm quan trọng của các kỹ năng mềm trong cuộc sống.
Điều đáng nói ở đây là cho đến nay các chương trình giáo dục và đào tạo từ phổ thông đến đại học của nước ta, mặc dù bị kêu là quá tải, nhưng vẫn chưa chú trọng đến việc giáo dục các kỹ năng rất cần thiết trong cuộc sống. Các chương trình vẫn theo xu hướng nhồi nhét kiến thức, bất chấp cuộc sống đang thay đổi ngày càng nhanh, càng sâu rộng và những kiến thức đúng ngày hôm nay có thể trở nên lỗi thời vào ngày mai. Phải chăng đó là khiếm khuyết cơ bản nhất thuộc về triết lý giáo dục? Nếu vậy thì bao giờ mới có sự điều chỉnh thích hợp?
Không ai phủ nhận việc tích lũy kiến thức càng nhiều càng tốt, nhưng cuộc sống vốn rất đa dạng đặt ra những yêu cầu cũng rất đa dạng đối với người lao động, không riêng gì kiến thức. Trong thời đại thông tin với tốc độ nhân đôi kiến thức của nhân loại chỉ trong vòng 10-15 năm, thì dạy bao nhiêu kiến thức cho đủ? Chỉ khi học sinh, sinh viên được trang bị tốt những kỹ năng sống thiết yếu, nhất là kỹ năng tự học để không ngừng tự cập nhật kiến thức mới và tự hoàn thiện mình, mới có thể đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Sự giàu có về nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không phải là tài nguyên, mới là nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh. Vì vậy, rất cần xây dựng một triết lý giáo dục phù hợp với thời đại.
-TRẦN THƯỢNG TUẤN
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Monday, August 30, 2010
Cà phê đấu giá
“Làm ăn hơn nhau là cái ý tưởng”, bài học vỡ lòng về kinh doanh do vợ dạy tôi luôn thuộc nằm lòng. Nhờ thế mà khi quán nhậu “Thất tình” bắt đầu vắng khách vì có quá nhiều người bắt chước, tôi chuyển ngay sang mô hình “Cà phê đấu giá”.
Nhờ mặt bằng rộng rãi, vốn liếng và nhân lực sẵn có từ thành công của quán nhậu cũ, Cà phê đấu giá của tôi nhanh chóng khai trương với slogan màu đỏ chói “Đậm đà cà phê, đê mê khúc hát, man mác cảnh quan, rộn ràng mua bán”. Ấn tượng hơn, bục đấu giá đặt ở vị trí trung tâm quán có một băngrôn rất to “Ở đây bạn có thể bán và mua từ cây kim đến con tàu vũ trụ”.
Nhờ mặt bằng rộng rãi, vốn liếng và nhân lực sẵn có từ thành công của quán nhậu cũ, Cà phê đấu giá của tôi nhanh chóng khai trương với slogan màu đỏ chói “Đậm đà cà phê, đê mê khúc hát, man mác cảnh quan, rộn ràng mua bán”. Ấn tượng hơn, bục đấu giá đặt ở vị trí trung tâm quán có một băngrôn rất to “Ở đây bạn có thể bán và mua từ cây kim đến con tàu vũ trụ”.
Thật hấp dẫn khi vừa nhâm nhi cà phê vừa chờ cơ hội được mua rẻ, bán đắt qua đấu giá sôi nổi nên ngày nào quán cũng đông nghẹt khách, nhất là những hôm có mặt hàng đặc biệt vào cuối tháng như hôm nay.
Đúng 10 giờ sáng, tôi bước lên bục gõ mạnh tiếng búa khai mạc. Đợi tiếng vỗ tay dứt, tôi dõng dạc:
- Các bạn thân mến, hôm nay là ngày đặc biệt vì chúng ta sẽ mua và bán những thứ... không nhìn thấy. Đó là gì? Xin giới thiệu món đấu giá đầu tiên: cơ hội chụp hình chung với chú cún yêu của đi-va Yến Yến, giá khởi điểm: 1 triệu đồng!
Bên dưới bắt đầu xôn xao. Một cánh tay giơ lên, giọng hơi thiếu tự tin:
- 2 triệu!
Có tiếng “xì” giễu cợt rồi những cánh tay liên tiếp giơ lên, giá tăng dồn dập: 5 triệu... 10 triệu... 50 triệu!
Một thoáng im lặng, tôi chậm rãi:
- 50 triệu lần một... lần hai... lần ba...
Tiếng búa gõ mạnh, người trúng giá hét lên mừng rỡ như vừa trúng xổ số. Tôi mỉm cười:
- Xin chức mừng bạn. Hi vọng bạn sẽ có một tấm hình rạng ngời bên chú cún xinh đẹp của ngôi sao nổi tiếng nhất hiện nay... Và bây giờ là món đấu giá thứ hai: một bữa ăn sáng cùng thủ khoa của những thủ khoa kỳ thi đại học năm nay. Giá khởi điểm: cũng 1 triệu đồng!
Lại xôn xao, xì xầm rồi một cánh tay rụt rè giơ lên để... hỏi:
- Thủ khoa là nam hay nữ?
Tôi đáp ngay:
- Là nam, một anh chàng rất dễ mến.
Tiếng xì xầm im bặt, rồi một cánh tay khác giơ lên:
- Có đưa tin trên báo không?
Tôi mím môi một chút rồi nói to:
- Tất nhiên là có!
Không khí lại bắt đầu sôi động, một vài cánh tay giơ lên và giá của bữa ăn sáng nhích lên: 1,2 triệu... 1,5... 2,3 triệu!
Búa lại được gõ mạnh và người trúng giá reo lên mừng rỡ như vừa có điện lại sau khi cúp cả ngày. Tôi nheo mắt:
- Thưa các bạn, bây giờ là hàng “khủng” đây: quyền trao vương miện cho hoa hậu cuộc thi “người đẹp miệt vườn”. Giá khởi điểm: 100 triệu đồng!
Bên dưới ồn ào hơn vỡ chợ. Cả rừng cánh tay giơ lên. Một ai đó nhanh chóng chụp lấy mi-cờ-rô, hét to:
- 200 triệu!
Cuộc đấu giá bắt đầu biến thành cuộc đấu võ mồm. Tiếng hô giá lẫn vào tiếng cãi nhau:
- Mày tưởng vậy là ngon hả, 300 triệu!
- Đồ trọc phú, 400 triệu!
- Quên đi gã nhà quê, 600 triệu!
...
Khi giá được nâng đến 3 tỉ thì trật tự được lập lại. Tôi gõ mạnh búa, tuyên bố:
- Chúc mừng người trúng giá, chúc mừng đại gia! Và bây giờ là món hàng cuối cùng: quyền đánh trống khai giảng năm học mới tại trường học dành cho trẻ em nghèo, giá khởi điểm là...
Bên dưới mọi người bỗng đồng loạt chăm chú... uống cà phê, tôi tần ngần một lúc rồi hét to:
- Xin nhắc lại, quyền đánh trống khai giảng có truyền hình trực tiếp...
Bên dưới lại bắt đầu hỗn loạn, hàng loạt cánh tay giơ lên, người ta tranh nhau
mi-cờ-rô khiến ly tách rơi loảng xoảng...
Vừa lúc đó thì điện thoại trong túi reo, đó là vợ tôi:
- Sao anh liều vậy? Làm gì có truyền hình trực tiếp?
Tôi thì thầm:
- Không sao, vụ hoa hậu lúc nãy mình đã được 10%, dư sức thuê truyền hình...
-PHƯƠNG LINH
(Nguồn: Tuổi Trẻ Cuối Tuần)
Friday, August 27, 2010
Chiều nịnh nhau và chiều nịnh chính mình
Trẻ đang học tiểu học thôi cũng đã giỏi bắt bài nhau lắm rồi. Một lần tôi nghe hai anh em nhà nọ cùng khoe với mẹ rằng học bạ của mình toàn điểm tốt. Nhưng thằng anh nói ngay về thằng em: - Điểm của cô nó quá rẻ, không tin được đâu, mẹ ạ.
Đến trẻ còn biết nhìn nhận cái gọi là thực chất của chúng đến đâu. Ấy vậy mà người đời thường làm ngược lại. Chiều nịnh nhau, khen nhau vô tội vạ đã trở thành một cách sống không chỉ lan tràn trong nhà trường mà còn phổ biến trong toàn xã hội.
Những khu phố nhếch nhác bẩn thỉu, dân chạy ra đường cãi nhau chửi nhau loạn xị, song vẫn cho chăng ngang đường cái biển to đùng “Khu phố văn hóa”.
Những cơ quan xí nghiệp nhà nước làm ăn bê bết song từ trên xuống dưới người nào cũng được khen thưởng.
Giám đốc ký bằng khen thưởng thật nhiều để chứng tỏ dưới sự lãnh đạo của mình, đơn vị đã ăn nên làm ra.
Sự chiều nịnh xuất hiện ở bất cứ chỗ nào người ta khinh rẻ con người, dùng lối xoa đầu trẻ con để đối xử, kích thích vào tâm lý nông nổi của người đời và tạo nên một sự phồn vinh giả tạo.
Đâu chục năm trước, tự nhiên Bộ Giáo dục nước mình có quyết định những ai lâu nay vẫn kêu phó tiến sĩ nay là tiến sĩ, còn các tiến sĩ cũ kêu bằng tiến sĩ khoa học. Thoạt đầu mọi người bảo nhau thôi cũng là một cách động viên nhau làm thế mạnh khi đối ngoại, tức để chứng tỏ trong chiến tranh nền giáo dục nước mình vẫn phát triển và về mặt con người, ta thừa khả năng nói chuyện ngang hàng với thế giới. Ít lâu sau mới nhận ra các ông ấy làm thế để tự mình công kênh mình lên, báo cáo là có thành tích, đồng thời che giấu sự bất tài bất lực trong việc tổ chức cho được một nền giáo dục hiện đại.
Nhìn vào báo chí, người ta thấy ngay những tin tức xuôi chiều nghe đến đâu mát lòng mát ruột đến đấy. Những câu chuyện thô tục khơi mào cho những tiếng cười rẻ tiền. Những cuộc đố vui đánh vào tâm lý ăn may của công chúng. Tỷ lệ những trang báo loại này quá lớn, tất cả cốt làm xì hơi bớt nỗi bức xúc dồn tụ trong lòng người, mà cũng để dân làm báo khỏi cất công vất vả lặn lội đi viết về những vấn đề nhức nhối của đời sống, nhọc nhằn mà lại nguy hiểm.
Trong một chuyện tiếu lâm Nga đầu thế kỷ trước, tôi đọc được đoạn đối thoại giữa hai ông cháu nhà nọ.
- Cháu ạ, có mấy anh ở sở đo đạc mới về đo lại con đường từ làng mình lên huyện. Họ mang lại một món quà quý hóa quá!
- Sao thế ông?
- Hồi trước đường lên huyện vẫn bảo là những 7 dặm. Nay các anh ấy đo lại hóa ra chỉ có 5 dặm. Thế chẳng phải nhờ các anh mà đường lên huyện đỡ được 2 dặm là gì!
Một trong những ý nghĩa của mẩu chuyện nhỏ này là, không cần biết thực hư ra sao, ở những xứ sở lạc hậu, con người chỉ cần những cái danh hão đã đủ vui lắm rồi. Có lẽ đấy là lý do sâu xa khiến cho ở những nơi ấy, ngón võ chiều nịnh vẫn được áp dụng rộng rãi.
Riêng ở xứ ta thì có cảm tưởng nó đã ngấm vào cách sống cách nghĩ của mỗi người bình thường, trở thành một phong cách thời đại.
Trong nhà đóng cửa bảo nhau hơn kém cũng xong, nhưng đứng khách quan mà nhìn, hình ảnh chúng ta như thế nào? Cũng có những người, qua tiếp xúc với thiên hạ, được thực tế mở mắt, cắn răng học hỏi để thực sự bằng người. Nhưng khá nhiều người không học hỏi được, tức không hội nhập được, xoay ra tự cho phép làm đủ thứ bậy bạ. Từ chỗ tự cao tự đại, người ta đi đến chỗ đánh mất hết lòng tự trọng, buông thả mình cho ma quỷ chi phối. Từ thái cực nọ sang thái cực kia, song trước sau vẫn con người ấy, sản phẩm ấy của thời đại.
Tôi đã rất đắn đo khi phải viết ra điều sau đây, nhưng nhiều tài liệu đọc được khiến tôi không thể nghĩ khác. Đó là sự mất uy tín của người mình trước bè bạn và các đối tác chung sống. Giao thiệp với một thế giới khôn ngoan tỉnh táo, nhiều khi chúng ta còn đắm chìm trong quá khứ và tự trình diện như một cộng đồng chẳng hiểu gì mình, chẳng hiểu gì về người, hết khoe mẽ lại xin xỏ và thường rất dễ bị ăn quả lừa. Trong khi tự mình làm không đủ nuôi mình, vẫn đắm mình trong cái ảo tưởng là mình ghê gớm lắm, cứ ngồi yên không cần làm, rồi mai đây cái gì cũng có, ta đâu có thua kém thế giới.
Bệnh tự chiều nịnh còn có một tác hại khác là làm cho con người hôm nay trở nên kiêu ngạo kỳ lạ so với ông cha. Khi ngoái lại các thời đại cũ, nhiều người không sao hiểu nổi mọi nỗ lực làm người của các thế hệ đi trước, mà chỉ chăm chăm với ý nghĩ xưa không bằng nay, miệng nói biết ơn nhưng trong bụng vênh váo tự phụ, thương hại người xưa.
-VƯƠNG TRÍ NHÀN
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn)
Đến trẻ còn biết nhìn nhận cái gọi là thực chất của chúng đến đâu. Ấy vậy mà người đời thường làm ngược lại. Chiều nịnh nhau, khen nhau vô tội vạ đã trở thành một cách sống không chỉ lan tràn trong nhà trường mà còn phổ biến trong toàn xã hội.
Những khu phố nhếch nhác bẩn thỉu, dân chạy ra đường cãi nhau chửi nhau loạn xị, song vẫn cho chăng ngang đường cái biển to đùng “Khu phố văn hóa”.
Những cơ quan xí nghiệp nhà nước làm ăn bê bết song từ trên xuống dưới người nào cũng được khen thưởng.
Giám đốc ký bằng khen thưởng thật nhiều để chứng tỏ dưới sự lãnh đạo của mình, đơn vị đã ăn nên làm ra.
Sự chiều nịnh xuất hiện ở bất cứ chỗ nào người ta khinh rẻ con người, dùng lối xoa đầu trẻ con để đối xử, kích thích vào tâm lý nông nổi của người đời và tạo nên một sự phồn vinh giả tạo.
Đâu chục năm trước, tự nhiên Bộ Giáo dục nước mình có quyết định những ai lâu nay vẫn kêu phó tiến sĩ nay là tiến sĩ, còn các tiến sĩ cũ kêu bằng tiến sĩ khoa học. Thoạt đầu mọi người bảo nhau thôi cũng là một cách động viên nhau làm thế mạnh khi đối ngoại, tức để chứng tỏ trong chiến tranh nền giáo dục nước mình vẫn phát triển và về mặt con người, ta thừa khả năng nói chuyện ngang hàng với thế giới. Ít lâu sau mới nhận ra các ông ấy làm thế để tự mình công kênh mình lên, báo cáo là có thành tích, đồng thời che giấu sự bất tài bất lực trong việc tổ chức cho được một nền giáo dục hiện đại.
Nhìn vào báo chí, người ta thấy ngay những tin tức xuôi chiều nghe đến đâu mát lòng mát ruột đến đấy. Những câu chuyện thô tục khơi mào cho những tiếng cười rẻ tiền. Những cuộc đố vui đánh vào tâm lý ăn may của công chúng. Tỷ lệ những trang báo loại này quá lớn, tất cả cốt làm xì hơi bớt nỗi bức xúc dồn tụ trong lòng người, mà cũng để dân làm báo khỏi cất công vất vả lặn lội đi viết về những vấn đề nhức nhối của đời sống, nhọc nhằn mà lại nguy hiểm.
Trong một chuyện tiếu lâm Nga đầu thế kỷ trước, tôi đọc được đoạn đối thoại giữa hai ông cháu nhà nọ.
- Cháu ạ, có mấy anh ở sở đo đạc mới về đo lại con đường từ làng mình lên huyện. Họ mang lại một món quà quý hóa quá!
- Sao thế ông?
- Hồi trước đường lên huyện vẫn bảo là những 7 dặm. Nay các anh ấy đo lại hóa ra chỉ có 5 dặm. Thế chẳng phải nhờ các anh mà đường lên huyện đỡ được 2 dặm là gì!
Một trong những ý nghĩa của mẩu chuyện nhỏ này là, không cần biết thực hư ra sao, ở những xứ sở lạc hậu, con người chỉ cần những cái danh hão đã đủ vui lắm rồi. Có lẽ đấy là lý do sâu xa khiến cho ở những nơi ấy, ngón võ chiều nịnh vẫn được áp dụng rộng rãi.
Riêng ở xứ ta thì có cảm tưởng nó đã ngấm vào cách sống cách nghĩ của mỗi người bình thường, trở thành một phong cách thời đại.
Trong nhà đóng cửa bảo nhau hơn kém cũng xong, nhưng đứng khách quan mà nhìn, hình ảnh chúng ta như thế nào? Cũng có những người, qua tiếp xúc với thiên hạ, được thực tế mở mắt, cắn răng học hỏi để thực sự bằng người. Nhưng khá nhiều người không học hỏi được, tức không hội nhập được, xoay ra tự cho phép làm đủ thứ bậy bạ. Từ chỗ tự cao tự đại, người ta đi đến chỗ đánh mất hết lòng tự trọng, buông thả mình cho ma quỷ chi phối. Từ thái cực nọ sang thái cực kia, song trước sau vẫn con người ấy, sản phẩm ấy của thời đại.
Tôi đã rất đắn đo khi phải viết ra điều sau đây, nhưng nhiều tài liệu đọc được khiến tôi không thể nghĩ khác. Đó là sự mất uy tín của người mình trước bè bạn và các đối tác chung sống. Giao thiệp với một thế giới khôn ngoan tỉnh táo, nhiều khi chúng ta còn đắm chìm trong quá khứ và tự trình diện như một cộng đồng chẳng hiểu gì mình, chẳng hiểu gì về người, hết khoe mẽ lại xin xỏ và thường rất dễ bị ăn quả lừa. Trong khi tự mình làm không đủ nuôi mình, vẫn đắm mình trong cái ảo tưởng là mình ghê gớm lắm, cứ ngồi yên không cần làm, rồi mai đây cái gì cũng có, ta đâu có thua kém thế giới.
Bệnh tự chiều nịnh còn có một tác hại khác là làm cho con người hôm nay trở nên kiêu ngạo kỳ lạ so với ông cha. Khi ngoái lại các thời đại cũ, nhiều người không sao hiểu nổi mọi nỗ lực làm người của các thế hệ đi trước, mà chỉ chăm chăm với ý nghĩ xưa không bằng nay, miệng nói biết ơn nhưng trong bụng vênh váo tự phụ, thương hại người xưa.
-VƯƠNG TRÍ NHÀN
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn)
Sunday, August 22, 2010
Cái chết của học trò tôi...
1. P. là một học sinh bình thường trong lớp. Ở lớp học mà học viên đủ lứa tuổi, đủ quê quán, đa số là vừa học vừa làm, thì cả giáo viên lẫn học viên đều không có nhiều thời gian để nói chuyện, tâm sự hay đùa giỡn cùng nhau.
Thầy trò chỉ gặp nhau trên lớp. Thỉnh thoảng lớp học rộn lên những tiếng cười khi giáo viên cố gắng bông đùa một chút. Giữa học viên với nhau thì các em chơi theo nhóm, có em hầu như không chơi với ai. Như P. chỉ đi đi về về.
P. có vẻ rất ít bạn. Cô bé hiền, ít nói, có vẻ ngoài sáng sủa, trắng trẻo. Tôi đoán chắc gia đình em cũng không đến nỗi nào. Em học chăm với mức học trung bình khá. Khi sắp đến kỳ thi tốt nghiệp, em thể hiện rõ quyết tâm thi đậu của mình.
2. Trước ngày thi bộ môn do mình dạy, tôi làm một việc mà giáo viên rất hay làm là đoán đề. Sau đó, tôi nhắn tin cho các em trong lớp. Cũng không còn nhiều thời gian để ôn tập nhưng tôi nghĩ có thể suy luận của mình là đúng, và biết đâu trúng đề thì các em sẽ có lợi thế là đã xem lại bài đêm trước buổi thi.
Kết quả, tôi đoán đúng 2/3 đề. Vì cách suy luận của tôi là gắn đề thi với những sự kiện thời sự lớn trong năm ở trong nước và trên thế giới. Học trò gọi điện cho tôi khoe “trúng tủ”. Hầu như em nào cũng nói làm bài rất tốt. Riêng P., em khoe với tôi sẽ đạt trên 6 điểm sau khi đã dò đáp án.
3. Hai tuần sau. Một buổi tối, P. gọi cho tôi lúc 21g. Em khóc và nói em vừa biết tin rớt tốt nghiệp: “Con rớt tốt nghiệp rồi thầy ơi. Thầy cứu con đi”. Em chỉ đạt 26/30 điểm. Em hỏi tôi: “Tại sao môn lịch sử em làm đúng mà chỉ được chấm có 3 điểm?”. Tôi bảo: “Thầy không ra đề, cũng không được chấm điểm. Nếu em thấy mình làm tốt thì còn mấy ngày để nộp đơn phúc khảo, đừng quá lo lắng”.
Tôi khuyên em bình tĩnh nhưng P. tỏ ra rất tuyệt vọng. Có lẽ em nghĩ thiếu 4 điểm thì có phúc khảo cũng không ăn thua. Tôi cũng chỉ biết an ủi em và hướng dẫn em cách viết đơn phúc khảo.
Khuya hôm đó, chị gái của P. (sau này tôi mới biết đó là chị nuôi) nhắn tin cho tôi vỏn vẹn: “P. rớt tốt nghiệp nên tự tử rồi thầy ơi”.
Nghe tin P. uống thuốc trừ sâu mất lúc 10g đêm, đến sáng gia đình mới phát hiện, tôi sững người. Mấy thầy trò bủn rủn chân tay, lên xe đi về nhà em ở huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Tới nơi thì người nhà chuẩn bị đưa em đi.
Đám tang chỉ vỏn vẹn mấy chục người, có thêm thầy cô và bạn bè nên cũng đỡ hiu hắt. Nhìn cảnh ấy không ai kìm lòng được. Ai cũng thảng thốt hỏi nhau sao P. ra đi quá vội vã, không biết lý do nào khiến em cùng quẫn làm liều.
4. P. để lại một lá thư tuyệt mệnh, đại ý “Cuộc sống của con quá bất hạnh nên con phải ra đi”. Đám tang diễn ra ở ngôi nhà mà P. đang sống. Ngôi nhà khang trang đó là nhà người hàng xóm, nhận nuôi P. từ hồi em 6 tháng tuổi.
Cách đó khoảng mười căn là nhà mẹ đẻ em. Căn nhà nhỏ mới được xây theo diện nhà tình thương. Mẹ em sống một mình, mưu sinh bằng nghề bán vé số. Bà cũng không nói gì thêm suốt đám tang mà chỉ khóc và lủi thủi đi về.
Không nghe ai nhắc gì đến bố em. Tôi càng bàng hoàng khi biết về tuổi thơ và hoàn cảnh đáng thương của em.
Hàng xóm, người thân kể lại năm ngoái P. đã thi rớt tốt nghiệp. Năm nay em quyết tâm thi đậu để chị nuôi xin cho đi học trung cấp ở Sài Gòn. Biết tin rớt, nhiều người nói ra nói vào, đại ý là phàn nàn “sao được người ta nuôi, có ăn với học thôi mà thi hai năm không đậu”. Đêm em uống thuốc trừ sâu là đêm mà cả nhà bận việc và đi công tác hết, chỉ có em ở nhà.
Quay lại trường, lục tìm bảng điểm của P. tôi mới thật sự sốc. P. được 26 điểm nhưng em có thêm 2 điểm nghề và 1,5 điểm khu vực. Nếu vậy em chỉ thiếu có nửa điểm. Xin ý kiến của chị nuôi P., tôi làm đơn xin phúc khảo bài thi môn sử của em, với nguyện vọng là để oan hồn P. được thanh thản nơi chín suối.
Một tuần sau, kết quả phúc khảo cho biết em là một trong số ba trường hợp sau khi phúc khảo từ rớt thành đậu. Hơn 30 trường hợp khác ở cùng trường phúc khảo nhưng không thành công. Tôi nghĩ chắc trời thương để em được an lòng ra đi... dù kết quả phúc khảo bây giờ chỉ còn là vấn đề tâm linh.
5. Những lúc ngồi lại với học trò, chúng tôi thường trách nhau là quá vô tâm trước câu chuyện của P.. Ai cũng nghĩ em khá giả mà đâu biết hoàn cảnh gia đình em xáo trộn từ hồi còn đỏ hỏn.
Ai cũng thấy em ít nói, ít bạn nhưng không ai bắt chuyện. Và lúc em túng quẫn nhất, cần người thân nhất thì lại không có ai ở bên em. Nghĩ lại mới thấy P. bị trầm cảm nhưng trước đó không ai để ý.
Tôi nghĩ nếu mình quan tâm đến học trò nhiều hơn, nếu chịu khó bắt chuyện, chia sẻ với các em nhiều hơn... thì có lẽ đã khác, có lẽ sẽ cứu được em chăng?
Vì sao em lại chọn cái chết khi cuộc đời vẫn còn nhiều lối rẽ? Còn nơi nào để em nương tựa? Những câu hỏi cứ xoáy lấy tâm can tôi. Chịu quá nhiều áp lực từ cuộc sống khi tâm hồn còn quá non nớt, bồng bột thì kết quả rớt tốt nghiệp đối với P. chắc chỉ là giọt nước tràn ly. Mới đây gia đình nuôi em đã làm lễ cầu siêu đưa em vào chùa.
Tôi bị ám ảnh một thời gian dài về người học trò bạc mệnh. Buồn đau và xót xa nhiều lắm nhưng trách ai cũng đã quá muộn màng, bởi cuộc đời không cho phép chúng ta được nói hai chữ “giá như”.
LƯU TRANG ghi
N.M.C. (giáo viên, TP.HCM)
(Nguồn: Tuổi Trẻ Cuối Tuần)
Thầy trò chỉ gặp nhau trên lớp. Thỉnh thoảng lớp học rộn lên những tiếng cười khi giáo viên cố gắng bông đùa một chút. Giữa học viên với nhau thì các em chơi theo nhóm, có em hầu như không chơi với ai. Như P. chỉ đi đi về về.
P. có vẻ rất ít bạn. Cô bé hiền, ít nói, có vẻ ngoài sáng sủa, trắng trẻo. Tôi đoán chắc gia đình em cũng không đến nỗi nào. Em học chăm với mức học trung bình khá. Khi sắp đến kỳ thi tốt nghiệp, em thể hiện rõ quyết tâm thi đậu của mình.
2. Trước ngày thi bộ môn do mình dạy, tôi làm một việc mà giáo viên rất hay làm là đoán đề. Sau đó, tôi nhắn tin cho các em trong lớp. Cũng không còn nhiều thời gian để ôn tập nhưng tôi nghĩ có thể suy luận của mình là đúng, và biết đâu trúng đề thì các em sẽ có lợi thế là đã xem lại bài đêm trước buổi thi.
Kết quả, tôi đoán đúng 2/3 đề. Vì cách suy luận của tôi là gắn đề thi với những sự kiện thời sự lớn trong năm ở trong nước và trên thế giới. Học trò gọi điện cho tôi khoe “trúng tủ”. Hầu như em nào cũng nói làm bài rất tốt. Riêng P., em khoe với tôi sẽ đạt trên 6 điểm sau khi đã dò đáp án.
3. Hai tuần sau. Một buổi tối, P. gọi cho tôi lúc 21g. Em khóc và nói em vừa biết tin rớt tốt nghiệp: “Con rớt tốt nghiệp rồi thầy ơi. Thầy cứu con đi”. Em chỉ đạt 26/30 điểm. Em hỏi tôi: “Tại sao môn lịch sử em làm đúng mà chỉ được chấm có 3 điểm?”. Tôi bảo: “Thầy không ra đề, cũng không được chấm điểm. Nếu em thấy mình làm tốt thì còn mấy ngày để nộp đơn phúc khảo, đừng quá lo lắng”.
Tôi khuyên em bình tĩnh nhưng P. tỏ ra rất tuyệt vọng. Có lẽ em nghĩ thiếu 4 điểm thì có phúc khảo cũng không ăn thua. Tôi cũng chỉ biết an ủi em và hướng dẫn em cách viết đơn phúc khảo.
Khuya hôm đó, chị gái của P. (sau này tôi mới biết đó là chị nuôi) nhắn tin cho tôi vỏn vẹn: “P. rớt tốt nghiệp nên tự tử rồi thầy ơi”.
Nghe tin P. uống thuốc trừ sâu mất lúc 10g đêm, đến sáng gia đình mới phát hiện, tôi sững người. Mấy thầy trò bủn rủn chân tay, lên xe đi về nhà em ở huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Tới nơi thì người nhà chuẩn bị đưa em đi.
Đám tang chỉ vỏn vẹn mấy chục người, có thêm thầy cô và bạn bè nên cũng đỡ hiu hắt. Nhìn cảnh ấy không ai kìm lòng được. Ai cũng thảng thốt hỏi nhau sao P. ra đi quá vội vã, không biết lý do nào khiến em cùng quẫn làm liều.
4. P. để lại một lá thư tuyệt mệnh, đại ý “Cuộc sống của con quá bất hạnh nên con phải ra đi”. Đám tang diễn ra ở ngôi nhà mà P. đang sống. Ngôi nhà khang trang đó là nhà người hàng xóm, nhận nuôi P. từ hồi em 6 tháng tuổi.
Cách đó khoảng mười căn là nhà mẹ đẻ em. Căn nhà nhỏ mới được xây theo diện nhà tình thương. Mẹ em sống một mình, mưu sinh bằng nghề bán vé số. Bà cũng không nói gì thêm suốt đám tang mà chỉ khóc và lủi thủi đi về.
Không nghe ai nhắc gì đến bố em. Tôi càng bàng hoàng khi biết về tuổi thơ và hoàn cảnh đáng thương của em.
Hàng xóm, người thân kể lại năm ngoái P. đã thi rớt tốt nghiệp. Năm nay em quyết tâm thi đậu để chị nuôi xin cho đi học trung cấp ở Sài Gòn. Biết tin rớt, nhiều người nói ra nói vào, đại ý là phàn nàn “sao được người ta nuôi, có ăn với học thôi mà thi hai năm không đậu”. Đêm em uống thuốc trừ sâu là đêm mà cả nhà bận việc và đi công tác hết, chỉ có em ở nhà.
Quay lại trường, lục tìm bảng điểm của P. tôi mới thật sự sốc. P. được 26 điểm nhưng em có thêm 2 điểm nghề và 1,5 điểm khu vực. Nếu vậy em chỉ thiếu có nửa điểm. Xin ý kiến của chị nuôi P., tôi làm đơn xin phúc khảo bài thi môn sử của em, với nguyện vọng là để oan hồn P. được thanh thản nơi chín suối.
Một tuần sau, kết quả phúc khảo cho biết em là một trong số ba trường hợp sau khi phúc khảo từ rớt thành đậu. Hơn 30 trường hợp khác ở cùng trường phúc khảo nhưng không thành công. Tôi nghĩ chắc trời thương để em được an lòng ra đi... dù kết quả phúc khảo bây giờ chỉ còn là vấn đề tâm linh.
5. Những lúc ngồi lại với học trò, chúng tôi thường trách nhau là quá vô tâm trước câu chuyện của P.. Ai cũng nghĩ em khá giả mà đâu biết hoàn cảnh gia đình em xáo trộn từ hồi còn đỏ hỏn.
Ai cũng thấy em ít nói, ít bạn nhưng không ai bắt chuyện. Và lúc em túng quẫn nhất, cần người thân nhất thì lại không có ai ở bên em. Nghĩ lại mới thấy P. bị trầm cảm nhưng trước đó không ai để ý.
Tôi nghĩ nếu mình quan tâm đến học trò nhiều hơn, nếu chịu khó bắt chuyện, chia sẻ với các em nhiều hơn... thì có lẽ đã khác, có lẽ sẽ cứu được em chăng?
Vì sao em lại chọn cái chết khi cuộc đời vẫn còn nhiều lối rẽ? Còn nơi nào để em nương tựa? Những câu hỏi cứ xoáy lấy tâm can tôi. Chịu quá nhiều áp lực từ cuộc sống khi tâm hồn còn quá non nớt, bồng bột thì kết quả rớt tốt nghiệp đối với P. chắc chỉ là giọt nước tràn ly. Mới đây gia đình nuôi em đã làm lễ cầu siêu đưa em vào chùa.
Tôi bị ám ảnh một thời gian dài về người học trò bạc mệnh. Buồn đau và xót xa nhiều lắm nhưng trách ai cũng đã quá muộn màng, bởi cuộc đời không cho phép chúng ta được nói hai chữ “giá như”.
LƯU TRANG ghi
N.M.C. (giáo viên, TP.HCM)
(Nguồn: Tuổi Trẻ Cuối Tuần)
Lấy bài từ các báo, có vi phạm luật sở hữu trí tuệ?
Công ty tôi hiện đang thực hiện chương trình quảng bá cho một hãng dược phẩm ở các cao ốc văn phòng tại TP.HCM. Một trong những hoạt động đó là phát tờ rơi cho nhân viên văn phòng.
Trên tờ rơi có 2 mặt: một mặt in truyện cười sưu tầm từ các trang web; mặt còn lại in bài viết về sức khỏe, ví dụ như làm thế nào để giảm stress, ăn gì bổ não... Tất cả bài viết này đều có nguồn từ Internet, chủ yếu là báo điện tử A và B.
Tôi thấy hiện rất nhiều website khác đã copy các bài này và ghi cuối bài là "Theo A" hay "Theo B". Công ty tôi cũng làm thế.
Thật ra, bên công ty tôi đã tìm liên hệ được với tác giả bài viết để xin đăng, nhưng tác giả không chịu hợp tác (có lẽ do không thỏa thuận được thù lao), trong khi nhà in đã xin được giấy phép xuất bản và bắt đầu in rồi.
Xin hỏi cách làm như công ty tôi có vi phạm luật sở hữu trí tuệ hay không?
(Vũ Nguyên)
- Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về quyền tác giả như sau: Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về quyền nhận thân bao gồm các quyền sau đây:
1. Đặt tên cho tác phẩm;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về Quyền tài sản như sau:
1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a) Làm tác phẩm phái sinh;
b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
c) Sao chép tác phẩm (là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử - theo khoản 2 Điều 23 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan);
d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Luật Sở hữu trí tuệ do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 3 Điều 19 của Luật Luật Sở hữu trí tuệ phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (không nhằm mục đích thương mại - theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP);
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu (là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số - theo khoản 2 Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP);
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng (chỉ áp dụng cho trường hợp nhập khẩu không quá một bản - theo khoản 2 Điều 24 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP).
Chiếu trên cơ sở các quy định pháp lý như trên, việc công ty bạn sử dụng các tác phẩm báo chí đã được đăng trên internet để đăng lại trên các tờ rơi với mục đích thương mại, tuy có dẫn nguồn nhưng chưa được sự cho phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả thì công ty bạn đã vi phạm khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
Luật sư TRỊNH VĂN HIỆP
Văn phòng luật sư Gia Thành
(Nguồn: TTO)
Trên tờ rơi có 2 mặt: một mặt in truyện cười sưu tầm từ các trang web; mặt còn lại in bài viết về sức khỏe, ví dụ như làm thế nào để giảm stress, ăn gì bổ não... Tất cả bài viết này đều có nguồn từ Internet, chủ yếu là báo điện tử A và B.
Tôi thấy hiện rất nhiều website khác đã copy các bài này và ghi cuối bài là "Theo A" hay "Theo B". Công ty tôi cũng làm thế.
Thật ra, bên công ty tôi đã tìm liên hệ được với tác giả bài viết để xin đăng, nhưng tác giả không chịu hợp tác (có lẽ do không thỏa thuận được thù lao), trong khi nhà in đã xin được giấy phép xuất bản và bắt đầu in rồi.
Xin hỏi cách làm như công ty tôi có vi phạm luật sở hữu trí tuệ hay không?
(Vũ Nguyên)
- Điều 18 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về quyền tác giả như sau: Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về quyền nhận thân bao gồm các quyền sau đây:
1. Đặt tên cho tác phẩm;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về Quyền tài sản như sau:
1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a) Làm tác phẩm phái sinh;
b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
c) Sao chép tác phẩm (là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử - theo khoản 2 Điều 23 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan);
d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Luật Sở hữu trí tuệ do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 3 Điều 19 của Luật Luật Sở hữu trí tuệ phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân (không nhằm mục đích thương mại - theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP);
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu (là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số - theo khoản 2 Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP);
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng (chỉ áp dụng cho trường hợp nhập khẩu không quá một bản - theo khoản 2 Điều 24 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP).
Chiếu trên cơ sở các quy định pháp lý như trên, việc công ty bạn sử dụng các tác phẩm báo chí đã được đăng trên internet để đăng lại trên các tờ rơi với mục đích thương mại, tuy có dẫn nguồn nhưng chưa được sự cho phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả thì công ty bạn đã vi phạm khoản 3 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ.
Luật sư TRỊNH VĂN HIỆP
Văn phòng luật sư Gia Thành
(Nguồn: TTO)
Thursday, August 19, 2010
Nỗi mất và quên
Mười năm trước, bạn không bao giờ gặp một nỗi mất mát mang tên “hư ổ cứng”.
Những năm đó, thỉnh thoảng bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt người thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám cưới bạn bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm nham nhở, hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ băng dĩa cũ.
Hồi đó bạn biết trước sau gì chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống như bạn biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều tí nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái gì liên quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm của bạn, hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu dài. Máy tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải cài đặt lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.
Bỗng một ngày nó chết ngắt, cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm. Muôn năm là bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là hình ảnh, bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với giọng ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng đi tìm những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống như người yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố thở hắt lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.
Những chuyến đi không còn dấu vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua. Bạn nhận ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng xăng chụp ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới chỗ này chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy đó. Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng thời gian đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh khắc đã qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ bạn không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi, nhưng bạn không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát, bạn không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…
Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười của chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được sống lại buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những triền cát nóng.
Giống như cách bạn nhớ chuyến đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới đây, và sau này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác quan trẻ nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau, bạn vẫn còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác nước, tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người đàn ông lạ mà bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay ba bạn.
Không có tấm ảnh nào còn lại sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói của người tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó kịp làm bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên không gây hụt hẫng và tiếc nuối.
Nó không đột ngột biến mất như ‘thằng” ổ cứng vừa mang theo một vùng ký ức ra đi. Những bài hát bạn sẽ tìm lại ở tiệm bán băng đĩa, hay trên mạng, nhưng sẽ mất một thời gian để bạn nhớ ra, mình đã từng thích bài hát nào, giọng hát nào, tại sao. Đôi lúc bài hát cũng gợi nhớ một người nào đó, một đoạn đời nào đó. Chúng ít nhiều miêu tả cuộc đời bạn. Tại sao những bài ca ngô nghê, ngớ ngẩn đó năm mười lăm tuổi bạn lại thích mê mẩn? Tại sao có những bản nhạc hồi hai mươi bạn không thể nghe nổi, thì năm năm sau, bạn không dứt ra được những “một ngày như mọi ngày / em trả lại tình tôi / một ngày như mọi ngày / ta nhận lời tình cuối / một ngày như mọi ngày/đời nhẹ như mây khói…”? Tại sao một bài sến chảy nước “Đừng nói xa nhau, cho tâm hồn đau khổ…” bạn lại giữ gìn cẩn thận, không phải vì một người dưng nào đó rưng rưng hát hôm hội tan bạn ra về? Giờ người đã xa, chuyến đi quá vãng, bài hát bị mất. Giờ ngang qua quán cà phê, hay xe kẹo kéo, bạn chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng.
Làm biếng cảm thụ cuộc sống, làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ giùm. Nên máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.
Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…
-NGUYỄN NGỌC TƯ
Những năm đó, thỉnh thoảng bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt người thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám cưới bạn bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm nham nhở, hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ băng dĩa cũ.
Hồi đó bạn biết trước sau gì chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống như bạn biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều tí nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái gì liên quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm của bạn, hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu dài. Máy tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải cài đặt lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.
Bỗng một ngày nó chết ngắt, cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm. Muôn năm là bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là hình ảnh, bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với giọng ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng đi tìm những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống như người yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố thở hắt lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.
Những chuyến đi không còn dấu vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua. Bạn nhận ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng xăng chụp ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới chỗ này chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy đó. Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng thời gian đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh khắc đã qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ bạn không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi, nhưng bạn không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát, bạn không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…
Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười của chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được sống lại buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những triền cát nóng.
Giống như cách bạn nhớ chuyến đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới đây, và sau này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác quan trẻ nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau, bạn vẫn còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác nước, tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người đàn ông lạ mà bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay ba bạn.
Không có tấm ảnh nào còn lại sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói của người tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó kịp làm bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên không gây hụt hẫng và tiếc nuối.

Làm biếng cảm thụ cuộc sống, làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ giùm. Nên máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.
Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…
-NGUYỄN NGỌC TƯ
Tuesday, August 17, 2010
Những phẩm chất làm nên nhà lãnh đạo
(Nghiên cứu của tác giả Daniel Goleman trên Harvard Business Review)
-Nguyễn Thế Tuấn Anh dịch
Daniel Goleman chính là người đầu tiên phổ biến rộng rãi thuật ngữ "trí tuệ cảm xúc" khi ông cho ra đời cuốn sách cùng tên, xuất bản năm 1995. Goleman cũng chính là người đầu tiên đem khái niệm này ứng dụng vào lĩnh vực kinh doanh, khởi đầu bằng bài viết đăng trên HBR năm 1998, là bài viết được giới thiệu với độc giả tại đây.
Tiến hành một cuộc khảo sát với gần 200 công ty lớn trên khắp thế giới, Goleman nhận thấy các phẩm chất xưa nay vẫn được coi là đi liền gắn chặt với nghệ thuật lãnh đạo - chẳng hạn trí thông minh, chí kiên cường, tính cương quyết, và tầm nhìn - tuy đúng là cần thiết cho bước đường thành công của một nhà lãnh đạo, nhưng vẫn chưa thể gọi là đủ. Để biết một nhà lãnh đạo thực sự có tài hay không, còn phải xét xem nhà lãnh đạo ấy có hay không một trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao, bao gồm khả năng ý thức về mình, khả năng tự chủ lấy mình, động lực hành động, khả năng thấu cảm, và kỹ năng xã hội.
Dù các phẩm chất vừa nêu nghe có vẻ "yếu ớt" và chẳng ăn nhập gì với lĩnh vực kinh doanh, nhưng Goleman đã khám phá mối liên hệ trực tiếp giữa trí tuệ cảm xúc và các kết quả kinh doanh khả lường.
Trong khi mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc với lĩnh vực kinh doanh đã và đang tiếp tục làm khơi dậy nhiều cuộc tranh luận suốt trong sáu năm qua, thì bài viết của Goleman vẫn được lấy làm nguồn tham khảo về đề tài này, với một phác họa về từng phần cấu thành nên trí tuệ cảm xúc và một giảng giải chi tiết về cách thức giúp nhận ra nó nơi các nhà lãnh đạo tiềm năng, về việc do đâu mà nó có mối liên hệ với những thành công trong nghệ thuật lãnh đạo, cũng như việc mối liên hệ ấy thể hiện ra như thế nào, và về việc làm cách nào để phát triển được trí tuệ cảm xúc ấy.
Trong nghệ thuật lãnh đạo, chỉ số thông minh và các kỹ năng chuyên môn giữ một vai trò quan trọng; tuy nhiên, cái thiết yếu nhất, tuyệt đối không thể thiếu được, chính là Trí tuệ Cảm xúc (Emotional Intelligence).
Các doanh nhân đều biết câu chuyện một nhà quản lý xuất chúng về trí tuệ và sắc sảo về các kỹ năng chuyên môn, được cất nhắc vào một chức vụ lãnh đạo, nhưng lại thất bại khi ở trong vị trí mới đó. Và những người làm kinh doanh cũng đều biết câu chuyện về một ai đó có khả năng trí tuệ và các kỹ năng chuyên môn không lấy gì làm xuất sắc lắm, nhưng khi được cất nhắc vào vị trí lãnh đạo thì lại tung cánh bay cao, tiến từ hết thành công này đến thành công khác.
Những mẩu giai thoại như thế thường được rộng rãi truyền tai, góp phần làm củng cố lối suy nghĩ phổ biến cho rằng việc xác định các cá nhân mang "tố chất thích hợp" để trở thành lãnh đạo là cả một nghệ thuật, chứ không chỉ là vấn đề mang tính cách khoa học thuần túy. Và nói cho cùng, các phẩm chất cá nhân nơi những nhà lãnh đạo xuất chúng thường tỏ ra rất đa dạng: Một số nhà lãnh đạo mạnh về khả năng phân tích và có lối cư xử nhẹ nhàng; một số người khác lại có cách cư xử cứng rắn, kiểu ăn to nói lớn.
Và các tình huống quan trọng hay các hoàn cảnh khác nhau, đòi hỏi các dạng nghệ thuật lãnh đạo khác nhau. Hầu hết các hãng liên doanh đều cần đến một nhà lãnh đạo mềm dẻo và khéo léo về nghệ thuật đàm phán, trong khi nhiều hãng chuyên làm các dịch vụ bốc xếp hàng hóa thì lại cần đến một nhà lãnh đạo cứng rắn hơn, có khả năng "hét ra lửa".
Dù vậy, tôi lại nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo có năng lực làm việc hiệu quả nhất đều giống nhau ở điểm cốt yếu này: Hết thảy họ đều có một trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao. Đương nhiên, như thế không có nghĩa bảo rằng Chỉ số Thông minh (IQ) và các kỹ năng chuyên môn chẳng hề đóng lấy vai trò nào quan trọng. Thực sự cần thiết, nhưng về chính yếu, chúng được coi là "các tài năng khởi điểm," tức là những gì mang tính cách nền tảng, đòi hỏi phải có ngay từ các vị trí quản lý.
Tuy nhiên, cuộc khảo sát của tôi, cùng với các cuộc nghiên cứu khác được tiến hành trong thời gian gần đây, đã cho thấy rõ rằng trí tuệ cảm xúc là yếu tố tuyệt đối cần thiết phải có trong nghệ thuật lãnh đạo. Không có nó, thì một người nào đó dù có được huấn luyện tuyệt hảo đến đâu, dù có đầu óc phân tích sắc sảo đến độ nào, và dù có sản sinh được hằng hà vô số ý tưởng thông minh đi nữa, nhưng người ấy vẫn sẽ khó lòng trở thành một nhà lãnh đạo xuất chúng.
Trong những năm vừa qua, tôi cùng các cộng sự đã tiến hành một cuộc nghiên cứu, tập trung vào việc xem xét cách thức hoạt động của trí tuệ cảm xúc trong môi trường làm việc. Chúng tôi đã khảo sát mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc với năng lực làm việc hiệu quả, đặc biệt là nơi các người giữ vai trò lãnh đạo. Chúng tôi cũng để ý theo dõi cách thức biểu hiện qua công việc của trí tuệ cảm xúc này.
Bạn có thể nói thế nào đây khi gặp ai đó có trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao, và bạn làm cách nào để nhận biết trí tuệ cảm xúc ấy nơi chính bản thân bạn? Trong các phần dưới đây, cùng nhau tìm hiểu vấn đề này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc: khả năng ý thức về mình, khả năng tự chủ lấy mình, động lực hành động, khả năng thấu cảm, và kỹ năng xã hội.
Định vị giá trị của trí tuệ cảm xúc
Ngày nay, đa phần các công ty lớn đều tiến hành việc tuyển dụng các nhà tâm lý lành nghề để phát triển một "mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc" nhằm hỗ trợ họ trong việc nhận diện, huấn luyện và thăng cấp cho các ngôi sao có khả năng tỏa sáng trong bầu trời lãnh đạo. Các nhà tâm lý học cũng đã phát triển những mô hình kiểu mẫu như thế dành cho các vị trí làm việc thấp hơn.
Và trong mấy năm gần đây, tôi đã thử phân tích các mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc ấy nơi 188 công ty - hầu hết là những hãng lớn và có quy mô toàn cầu, kể cả các hãng đại loại như Lucen Technologies, British Airways, và Credit Suisse.
Trong quá trình tiến hành cuộc phân tích, mục tiêu tôi nhắm tới là tìm cách xác định cho biết những năng lực cá nhân nào - cũng như ở mức độ nào thì chúng - có tác động thúc đẩy và giúp tạo ra năng suất làm việc tốt nhất trong lòng các công ty này.
Tôi chia các dạng năng lực cá nhân ấy thành ba loại: các kỹ năng thuần túy chuyên môn, chẳng hạn như khả năng tính toán và vạch kế hoạch kinh doanh; các năng lực nhận thức, như khả năng phân tích và lập luận; và các khả năng biểu thị trí tuệ cảm xúc, chẳng hạn như khả năng làm việc nhóm, khả năng tạo ra các bước thay đổi có hiệu quả.
Để lập nên một số mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc, các nhà tâm lý học đã đề nghị các nhà quản lý cấp cao tại các công ty ấy xác định và nêu lên những khả năng được coi là đặc trưng nơi các nhà lãnh đạo xuất sắc nhất trong công ty mình. Để tạo ra các mô hình kiểu mẫu khác, các nhà tâm lý học đã dựa vào các tiêu chuẩn khách quan, chẳng hạn như mức độ lợi nhuận một bộ phận nào đó trong công ty tạo ra được, nhằm phân biệt ra những người làm việc hiệu quả nhất ở các vị trí cao cấp trong công ty với những người có năng suất làm việc ở vào mức độ trung bình.
Tiếp đó, các cá nhân nổi bật này sẽ trải qua thêm các cuộc phỏng vấn và kiểm tra; và các khả năng của từng người này sẽ được đem so sánh với nhau. Và cuối cùng, một danh sách sẽ được lập ra, liệt kê những phẩm chất dành cho các nhà lãnh đạo tài ba. Danh sách này có độ dài từ bảy đến 15 mục, bao gồm cả những phẩm chất như là óc sáng kiến và tầm nhìn chiến lược.
Bắt tay vào việc phân tích các dữ liệu ấy, tôi đã thu được các kết quả rất ấn tượng. Lẽ tất nhiên, khả năng trí tuệ là thứ yếu tố thúc đẩy tạo ra năng suất làm việc nổi bật. Các kỹ năng nhận thức - chẳng hạn như lối tư duy bao quát tổng thể và tầm nhìn dài hạn - đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng đến khi tính toán tỷ lệ giữa các kỹ năng chuyên môn, chỉ số thông minh, và trí tuệ cảm xúc - tức là các yếu tố tạo nên năng suất làm việc đỉnh cao - tôi nhận thấy trí tuệ cảm xúc giữ một vị trí quan trọng ở mức độ gấp đôi so với các yếu tố còn lại xét ở mọi cấp độ công việc.
Ngoài ra, cuộc phân tích của tôi cũng đã cho thấy rằng trí tuệ cảm xúc càng đóng một vai trò quan trọng bội phần đối với các vị trí cao cấp nhất trong công ty, bởi ở trong các vị trí cao cấp nhất này, mức độ khác biệt về các kỹ năng chuyên môn không còn là điều quan trọng đáng kể nữa.
Nói cách khác, một người được coi là làm việc hiệu quả hễ có chức vụ càng cao, thì các khả năng thuộc trí tuệ cảm xúc càng được thể hiện rõ ra, và chúng chính là nguyên nhân tạo ra khả năng làm việc hiệu quả ấy của anh ta. So sánh những người có năng suất làm việc cao với những người có năng suất làm việc trung bình ở các vị trí lãnh đạo cao cấp, tôi nhận thấy rằng 90% sự khác biệt giữa họ không nằm ở các khả năng nhận thức, mà hệ tại các yếu tố thuộc trí tuệ cảm xúc.
Các nhà nghiên cứu khác cũng quả quyết rằng không những là yếu tố giúp nhận ra được nét khác biệt giữa các nhà lãnh đạo lỗi lạc, mà trí tuệ cảm xúc còn có mối liên hệ gắn liền với năng suất làm việc hữu hiệu nữa. Các khám phá của David McClelland - một nhà nghiên cứu lừng danh, đã qua đời, chuyên về lĩnh vực hành vi ứng xử của con người và tổ chức - sẽ giúp minh họa rõ nét về điều này.
Trong cuộc nghiên cứu được tiến hành vào năm 1966, tại một hãng thực phẩm và nước giải khát có quy mô toàn cầu, McClelland đã khám phá ra rằng đối với các nhà quản lý cao cấp có được nơi mình một số khả năng trí tuệ cảm xúc chủ đạo, thì các bộ phận họ quản lý đều gia tăng được năng suất làm việc và đạt vượt mức chỉ tiêu lợi nhuận hằng năm đến 20%.
Trong khi đó, đối với những người lãnh đạo không có được các khả năng trí tuệ cảm xúc chủ đạo kia, thì các chi nhánh họ lãnh đạo lại làm việc với năng suất kém thua cũng gần như đến con số phần trăm vừa nêu. Một điều thú vị là các khám phá ấy của McClelland không những đúng đối với các chi nhánh của hãng này ở Mỹ, mà còn đúng đối với các chi nhánh của nó ở Âu châu và Á châu nữa.
Tóm lại, các con số ấy bắt đầu kể ta nghe một câu chuyện thuyết phục về mối liên hệ giữa sự thành công của một công ty với trí tuệ xúc cảm nơi các nhà lãnh đạo của nó. Và cũng quan trọng không kém, cuộc nghiên cứu kia cũng cho thấy rằng nếu nắm được phương pháp thích hợp, người ta có thể phát triển được trí tuệ cảm xúc của mình.
Khả năng ý thức về mình
Khả năng ý thức về mình - hay khả năng tự ý thức - là yếu tố đầu tiên thuộc trí tuệ cảm xúc. Có khả năng ý thức về mình, nghĩa là ta có được một sự hiểu biết rõ ràng về những cảm xúc, sở trường, sở đoản, các nhu cầu, các khuynh hướng và động lực của bản thân. Những người có khả năng tự ý thức cao độ thường không có thái độ phê bình thái quá, cũng không đặt hy vọng vào những gì viễn vông, phi thực. Trái lại, họ giữ được thái độ ngay thực - với chính mình và với những người khác.
Những người có ý thức cao độ về mình thường nhận biết rõ việc các cảm xúc của họ có tác động ra sao đối với chính họ, đối với những người khác, và đối với năng suất làm việc của họ. Bởi đó, trong công việc, người biết ý thức về mình luôn cẩn thận sắp xếp thì giờ và nỗ lực hoàn thành tốt công việc mình trước thời hạn cuối cùng, vì biết rằng tình trạng đợi nước đến chân mới chịu nhảy chỉ tổ đem lại cho mình điều tồi tệ nhất mà thôi.
Người có ý thức cao độ về mình cũng sẽ biết được cách xử sự phải lẽ với một khách hàng khó tính. Anh ta sẽ hiểu được thái độ cư xử của người khách hàng ấy, biết rõ việc nó có tác động ra sao đến tâm trạng của mình, cũng như nắm rõ các nguyên do sâu xa hơn làm cho mình có cảm giác thất vọng về người khách hàng ấy.
"Những đòi hỏi vặt vãnh của họ khiến chúng ta quên mất đi công việc thực tế cần phải hoàn thành," anh ta có thể giải thích như thế. Và rồi anh ta sẽ tiến thêm một bước nữa, biến cảm giác giận dữ của mình thành thái độ mang tính cách tích cực, xây dựng.
Khả năng tự ý thức còn giúp ta hiểu rõ các giá trị mình có, cũng như các mục tiêu mình đặt ra và vươn tới. Người có ý thức cao độ về mình luôn biết rõ việc mình đang tiến bước về đâu, và vì đâu mà mình làm như thế; do vậy, chẳng hạn, người đó, sẽ cương quyết chối từ một công việc hấp dẫn được đề nghị, vì tuy có thể mang lại một mức thu nhập cao hơn, nhưng công việc ấy lại không phù hợp với các nguyên tắc hay mục tiêu dài hạn anh ta đã vạch ra.
Còn một người thiếu ý thức về mình thường có xu hướng đưa ra các quyết định này kia mà không kể gì đến các giá trị bản thân, để rồi làm cho tâm hồn mình phải rơi vào tình trạng bất an, rối rắm. Sau hai năm làm một công việc nào đó, người này có thể thốt lên rằng: "Hồi đó, thấy có thể kiếm tiền ngon lành, nên tôi mới bắt tay vào công việc này, chứ thực ra nó chẳng có ý nghĩa gì với tôi, khiến lúc nào tôi cũng thấy chán chường muốn chết".
Các quyết định của những người biết ý thức về mình bao giờ cũng đi liền gắn chặt với các giá trị bản thân họ; và nhờ vậy, bao giờ họ cũng tìm được cho mình nguồn hứng khỏi và tinh thần hăng say trong mọi công việc họ làm.
Làm cách nào để nhận diện được cái khả năng tự ý thức kia? Đầu tiên và trước hết, sự tự ý thức ấy thể hiện ra ở tính cách ngay thẳng và bộc trực của một con người, cũng như ở khả năng người đó có trong việc tự đánh giá cách đúng đắn và thực tế về bản thân mình. Những người biết ý thức cao độ về mình có thể trò chuyện cách thẳng thắn và cởi mở - dù không nhất thiết phải theo kiểu tỉ tê kể lể hay phơi ruột mình ra - về những tâm tư tình cảm của họ, cũng như về sức tác động chúng có đối với công việc họ đang làm.
Chẳng hạn, một nhà quản lý tôi quen đang có thái độ lo lắng hoài nghi, không biết loại dịch vụ mới, dành cho khách mua hàng, mà công ty cô - một hệ thống cửa hàng bách hóa có quy mô lớn - tính cho ra đời, có thành hiện thực được hay không. Không đợi đến lúc người chủ hay đội ngũ nhân viên mình lên tiếng nhắc nhở hay thúc giục, cô đã tự mình đến gặp họ trước, và giải thích cho họ như sau: "Tôi thấy khó chịu với việc cứ kéo dài thời hạn tung ra dịch vụ ấy", cô thừa nhận, "bởi tôi thực sự muốn bắt tay chạy ngay dự án này, nhưng tiếc là tôi đã không được chọn. Xin hãy kiên nhẫn với tôi trong lúc tôi xử lý vấn đề này".
Người quản lý này đã thực sự xem xét kỹ lưỡng những gì cô cảm tưởng; và một tuần lễ sau đó, cô đã được giao cho toàn quyền bắt tay vào dự án kia.
Sự hiểu biết về bản thân như thế thường tự biểu hiện ra trong tiến trình thuê tuyển người làm. Hãy đề nghị một ứng viên kể lại về việc có một lúc nào đó anh ta không bận đoái hoài gì đến những tâm tư cảm nghĩ của mình và bắt tay vào làm điều gì đó, để rồi phải cảm thấy hối tiếc về sau.
Các ứng viên có ý thức về bản thân sẽ tỏ thái độ thẳng thắn mà thừa nhận tình cảnh thất bại của mình - và thường sẽ nở kèm một nụ cười trong khi kể lại câu chuyện về việc mình bị thất bại như thế. Khả năng dùng óc hài hước mà tự chế giễu lấy mình, chính là một trong những nét đặc trưng nổi bật của sự tự ý thức về bản thân.
Cũng có thể nhận diện được khả năng tự ý thức ấy qua các cuộc họp kiểm điểm về năng suất làm việc. Những người biết ý thức về mình luôn nắm rõ - và tỏ ra thoải mái khi nói về - các khuyết điểm và ưu điểm của họ, và họ thường cho thấy mình luôn mong muốn nhận được những lời phê bình có tính cách xây dựng. Trái lại, những người có ý thức về mình ở mức độ thấp thường coi những lời góp ý xây dựng như thứ gì đó gây đe dọa, hay như một dấu hiệu nói lên sự thất bại của họ.
Cũng có thể nhận biết những người có ý thức về bản thân qua sự tự tin họ thể hiện ra. Họ hiểu rõ các khả năng mình có, và bao giờ cũng biết tự lượng sức mình; họ không thổi phồng năng lực mình lên, cũng không vơ vào thân những việc vượt quá khả năng, để rồi phải loay hoay căng sức mình ra mà cuối cùng cũng chẳng thành công gì tất.
Bên cạnh đó, họ cũng biết nhờ người khác giúp đỡ hay hỗ trợ khi cần. Và họ có thể lường trước được những rủi ro sẽ gặp phải trong các công việc mình làm. Họ cũng sẽ không nhận một công việc nào đó được giao có tính cách cam go mà họ biết họ không thể một mình xoay sở nổi. Họ luôn biết hoạt động dựa theo năng lực đích thực của mình.
Thử xét xem trường hợp một cô nhân viên cấp trung được mời tham dự một cuộc họp bàn chiến lược với các người điều hành cấp cao trong công ty cô. Trong phòng họp, tuy là người có chức vụ nhỏ nhất, nhưng cô đã không vì thế mà tỏ thái độ khép nép sợ sệt để rồi chỉ biết khoanh tay ngậm miệng ngồi nghe. Cô biết rõ mình có óc tư duy sáng sủa, có cách suy luận mạch lạc, và có kỹ năng trình bày cách thuyết phục các ý tưởng trong đầu; và cô đã đưa ra được một số đề nghị rất đáng lưu ý về chiến lược của công ty. Cùng lúc, với khả năng hiểu biết về bản thân, cô đã không để mình đi lạc vào những vấn đề cô biết mình không nắm vững.
Đã làm rõ về giá trị hữu ích của việc các công ty có được cho mình những con người biết ý thức về bản thân, nhưng cuộc nghiên cứu của tôi lại cũng cho thấy điều này: đôi khi, trong lúc ra tay tìm kiếm những người lãnh đạo tiềm năng, các nhà điều hành cấp cao thường chẳng mấy coi trọng cho đủ giá trị của sự tự ý thức ấy.
Nhiều người làm công tác điều hành đã có cách nhìn nhận sai lầm, coi việc cởi mở tỏ bày cảm nghĩ tâm tư như là hành động biểu thị tính cách "yếu mềm/ nhu nhược," để rồi họ không dành đủ thái độ tôn trọng cho những nhân viên biết thẳng thắn mà thừa nhận các khuyết điểm của mình. Những nhân viên như thế thường bị đánh giá là "không có đủ cứng rắn" để có thể giữ vai trò lãnh đạo những người khác; và rốt cuộc, họ đã bị loại ra khỏi danh sách ứng viên cho chức vụ lãnh đạo.
Nhưng trên thực tế, điều ngược lại mới đúng. Về tổng quát mà nói, bao giờ người ta cũng tỏ thái độ tôn trọng và thán phục dành cho những con người có tính cách thẳng ngay. Hơn nữa, bao giờ các nhà lãnh đạo cũng buộc phải đưa ra những quyết định quan trọng vốn đòi hỏi phải dựa vào một sự đánh giá công minh về các khả năng - của chính họ và của những người khác.
Chúng ta có đủ khả năng thắng được đối thủ cạnh tranh hay không? Liệu trong vòng sáu tháng, chúng ta có tung ra được hay không, sản phẩm mới của mình? Những người biết trung thực đánh giá về bản thân - tức, nhưng người có khả năng ý thức về mình - chắc chắn sẽ đưa ra được cách đánh giá đúng đắn về các tổ chức họ đang điều hành.
Khả năng tự chủ
Các thúc đẩy sinh lý hướng dẫn cảm xúc của chúng ta. Không đủ sức loại bỏ chúng đi, nhưng ta có thể dùng nhiều cách để kiểm soát được chúng. Sự tự chủ - giống như một cuộc trò chuyện nội tâm liên tục - là một yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc, giúp ta không còn làm nô lệ cho các thứ cảm xúc mình nữa.
Hệt như mọi người khác, cũng có những cảm giác hay tâm trạng khó chịu, cũng cảm nhận được sức thúc đẩy của các thứ cảm xúc, nhưng những người biết đi vào các cuộc trò chuyện nội tâm như thế - tức là biết tự chủ - sẽ tìm ra được cách thức kiểm soát chúng, thậm chí còn biết chuyển hóa chúng, hướng chúng đến những gì hữu ích, tích cực.
Thử tưởng tượng ra hình ảnh một người điều hành vừa theo dõi xong buổi báo cáo chẳng ra hồn vía gì của nhóm nhân viên mình trước ban giám đốc công ty. Trong bầu không khí nặng nề ảm đạm sau buổi báo cáo ấy, có thể người điều hành kia thấy mình bị cám dỗ đập tay lên bàn hay đá văng chiếc ghế ngồi để trút ra cơn giận. Có thể anh ta sẽ muốn nhảy dựng lên và mắng xối xả vào mặt đám nhân viên anh coi là vô dụng kia. Hoặc cũng có thể anh sẽ vẫn ngồi im ra đó, hướng ánh mắt dữ tợn mà nhìn trừng trừng vào mặt từng người, rồi một mạch bước thẳng ra khỏi phòng, không một lời than thốt.
Tuy vậy, nếu có khả năng tự chủ, hẳn anh sẽ có cách xử sự khác đi. Hẳn anh không vội vàng nổi nóng hay hấp tấp đưa ra lời chỉ trích thiếu suy nghĩ, nhưng sẽ cẩn thận dùng những lời lẽ lịch sự để thẳng thắn phê bình các nhân viên ấy về cuộc báo cáo qua quít, lấy lệ kia. Anh sẽ bình tĩnh nhìn lại để xem xét các nguyên do đưa đến thất bại ấy: Lỗi là do các nhân viên đó - việc họ thiếu nỗ lực, chẳng hạn? Còn do một yếu tố nào khác bên cạnh? Trong lần thất bại này, anh có trách nhiệm gì không?
Sau khi kỹ lưỡng xem xét các câu hỏi này, anh sẽ tập hợp đội ngũ nhân viên mình lại, nêu rõ ra những hậu quả của lần thất bại này, rồi nói lên cảm nghĩ của mình về nó. Tiếp đó, anh sẽ phân tích cho họ thấy ra vấn đề và trình bày một giải pháp nào đó đã cân nhắc kỹ lưỡng nhằm khắc phục.
Vì lý do gì, sự tự chủ lại giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với các nhà lãnh đạo? Trước hết, những người kiểm soát được các cảm xúc và xung động thúc đẩy của mình - tức, những người biết kiềm chế bản thân mình - có thể tạo ra được một bầu không khí đầy ắp sự tin tưởng và công bằng. Trong một bầu không khí như thế, các cuộc cạnh tranh giữa các đảng chính trị, hay các cuộc đấu đá ngầm trong nội bộ một đảng chính trị, sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể, và khả năng cùng làm việc với nhau hiệu quả sẽ được nâng cao. Những người có tài sẽ lần lượt kéo nhau đầu quân vào tổ chức có được một bầu không khí như thế, và không bị cám dỗ phải rời bỏ tổ chức mình.
Và sự tự chủ ấy còn tạo ra được một hiệu ứng lan truyền. Không một thuộc cấp nào muốn bị coi là người nóng nảy trong khi ông chủ mình lúc nào cũng điềm tĩnh, ôn tồn. Hễ tâm trạng bất thường ở cấp trên càng bớt đi, thì cũng càng bớt đi cái tâm trạng như thế ở cấp dưới, và ở trong cả tổ chức.
Tiếp nữa, sự tự chủ đóng vai trò quan trọng xét vì các lý do liên quan đến những gì mang tính cạnh tranh. Ai cũng đều biết rằng thế giới kinh doanh ngày nay đang chứa trong nó đầy dẫy những thứ mơ hồ, nhập nhằng, và thay đổi. Các công ty đua nhau mọc lên, rồi cũng thi nhau mà rã đám: ấy là chuyện thường tình như cơm bữa hằng ngày. Nền công nghệ hiện đại đang khiến thế giới việc làm quay nhanh với tốc độ chóng mặt. Những ai làm chủ được các cảm xúc của mình, mới trụ vững được trong cái vòng quay tít mù như thế.
Lúc một chương trình mới mẻ nào đó được công bố ra, họ sẽ chẳng thấy hoang mang hay hốt hoảng; không vội vàng phàn nàn chỉ trích, họ sẽ bình tĩnh tìm kiếm thông tin, và lắng nghe những người điều hành giải thích về chương trình mới ấy. Và khi chương trình mới này được đưa ra áp dụng, những người này sẽ làm quen được với nó và sử dụng nó một cách hiệu quả.
Đôi khi, họ còn có thể đi được cả bước tiên phong nữa. Hãy xét xem trường hợp một nhà quản lý đang làm việc tại một xí nghiệp sản xuất lớn. Cũng như các đồng nghiệp của mình, suốt năm năm qua, cô vẫn dùng một chương trình phần mềm nhất định. Chương trình phần mềm ấy đã hỗ trợ cô trong việc thu thập dữ liệu và làm báo cáo, giúp ích cho cô rất nhiều trong bước đường cô suy nghĩ về chiến lược của xí nghiệp mình.
Một ngày nọ, ban quản lý cao cấp của xí nghiệp công bố sẽ tiến hành cài đặt một chương trình mới, một phần mềm được cho là có khả năng giúp thu thập và đánh giá thông tin cách hữu hiệu hơn. Trong lúc nhiều người khác ở xí nghiệp tỏ thái độ cay cú than phiền về bước thay đổi gây phiền hà kia, thì cô quản lý này vẫn tỏ ra bình tĩnh mà suy đi nghĩ lại về các lý do khiến cấp trên quyết định cho cài đặt chương trình mới ấy, và đã dần dần đi đến chỗ tin chắc vào khả năng nó sẽ giúp cải thiện được cách thức làm việc của mình.
Cô hào hứng tham dự các buổi huấn luyện về cách sử dụng phần mềm mới - trong khi một số đồng nghiệp của cô lại từ chối tham dự - và cuối cùng cô đã được giao cho nhiệm vụ quản lý một số bộ phận khác, một phần chính bởi vì cô đã sử dụng công nghệ mới này hết sức thành thạo và có hiệu quả.
Tôi muốn nêu bật hơn nữa tầm quan trọng của sự tự chủ là đức tính phải có nơi những người giữ vai trò lãnh đạo, và muốn làm rõ việc nó có thể giúp nâng cao được sự trọn vẹn và nhất quán (integrity) vốn không những là một đức tính của cá nhân nhưng còn là một thứ sức mạnh của tổ chức nữa. Nhiều chuyện tệ hại xảy ra trong lòng các công ty âu cũng là do bởi việc người này kẻ kia không làm chủ được sức thúc đẩy của các cảm xúc nơi mình.
Hiếm khi nào vì những mục tiêu ích kỷ mà người ta vạch hẳn hoi kế hoạch để thổi phồng lên các khoản lợi nhuận, độn thêm khoản này khoản kia vào bảng tính công tác phí, tìm cách rút xén công quỹ, hoặc lạm dụng quyền hành. Nói cho đúng, gặp cơ hội bày ra trước mắt, những người ít có khả năng kiểm soát sức thúc đẩy kia sẽ tra tay vào các hành động tiêu cực như vừa nêu.
Ngược lại, hãy xét hành động ứng xử của một nhà điều hành cấp cao tại một công ty thực phẩm lớn kia. Nhà điều hành này luôn giữ thái độ thẳng thắn và minh bạch trong những cuộc đàm phán thương lượng với các nhà phân phối địa phương. Anh thường trình bày cách chi tiết giá cả các loại mặt hàng, giúp các nhà phân phối kia nắm rõ thực tế về khung tính giá sản phẩm của công ty anh. Với cách làm này, hiếm khi nào anh gặp phải cảnh mặc cả trả giá gay go.
Cũng có đôi khi, anh cảm thấy một xung động thôi thúc anh tìm cách kiếm thêm lợi nhuận bằng việc giấu nhẹm đi thông tin về khung giá cả công ty anh đưa ra. Nhưng anh đã quyết liệt chống trả thứ xung động thúc đẩy ấy để không làm điều gian dối, tiêu cực kia. Khả năng kiềm chế cảm xúc như thế đã giúp anh xây dựng được các mối quan hệ bền chặt và lâu dài với những nhà phân phối, mang lại nhiều ích lợi đáng kể cho công ty anh: đây là điều anh sẽ không bao giờ có được nếu buông mình theo các thúc đẩy của cảm xúc để rồi chỉ biết tìm đến những khoản lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua đi các ích lợi lâu dài.
Như vậy, ta rất dễ nhận thấy các dấu hiệu biểu thị sự tự chủ về cảm xúc: một khuynh hướng trầm tư, ngẫm nghĩ thấu đáo; thái độ ung dung điềm tĩnh trước những gì lộn xộn và đổi thay; khả năng giữ được tính cách trọn vẹn và nhất quán nơi bản thân - biết nói không với các xung động thúc đẩy của cảm xúc.
Giống như sự ý thức về bản thân, sự tự chủ bản thân cũng thường không được nhìn nhận cho đúng với giá trị của nó. Những người làm chủ được các cảm xúc của mình đôi khi bị xem như những kẻ lạnh lùng, khô cứng - thái độ và hành động có suy xét của họ bị coi là cứng nhắc, thiếu cảm thông. Những ai có tính khí nóng nảy, dữ tợn lại thường được cầm như có tố chất lãnh đạo "cổ điển" - thái độ hung hăng của họ được cho là nét đặc trưng nổi bật biểu thị uy quyền và sức cuốn hút quần chúng.
Tuy nhiên, lúc những người này tiến lên được tới vị trí lãnh đạo, thì các xung động thúc đẩy nơi họ lại thường giở mặt "phản chủ." Qua cuộc nghiên cứu của mình, tôi nhận thấy rằng kiểu thái độ và hành động quá khích dựa theo những cảm xúc tiêu cực, không bao giờ giúp đưa người ta đi đến chỗ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất và tốt lành.
Động lực thúc đẩy
Nếu phải kể ra một nét đặc trưng nào đó mà hầu hết các nhà lãnh đạo tài ba đều có, thì đó chính là động lực thúc đẩy. Các nhà lãnh đạo này được thôi thúc để đạt đến đích, những điều vượt trên cả mong đợi - của chính mình và của mọi người khác. Cụm từ chính yếu cần lưu ý ở đây là: đạt đến đích.
Nhiều người tìm kiếm động lực thúc đẩy cho mình nơi các yếu tố bên ngoài bản thân, chẳng hạn như việc họ được mức lương cao, có được địa vị và danh tiếng, hay việc họ được làm thành viên của một công ty có uy tín hàng đầu. Trong khi đó, trái lại, những người có phẩm chất lãnh đạo tiềm năng lại tìm được động lực thúc đẩy dựa vào một niềm khát vọng thẳm sâu bên trong bản thân, mong muốn đạt đến mục đích thành tựu vì chính thành tựu ấy chứ không vì điều gì khác nữa.
Nếu đang tìm kiếm các nhà lãnh đạo tiềm năng, bạn làm cách nào để nhận diện ra được những người biết tìm động lực thúc đẩy nơi thành tựu sẽ đạt đến, chứ không phải nơi các thứ phần thưởng bên ngoài? Đây là dấu hiệu đầu tiên: có một lòng say mê dành cho chính công việc đang làm - những người như thế luôn tìm kiếm những gì có tính cách thách thức trí sáng tạo, luôn ham thích học hỏi, luôn có cảm giác vô cùng hãnh diện khi hoàn thành tốt công việc mình được giao.
Họ cũng luôn thể hiện nhiệt tâm muốn cải thiện chuyện này việc kia sao cho tốt hơn. Những người có nhiệt tâm như thế thường có vẻ hiếm khi nào bằng lòng để yên những gì là nguyên trạng. Bao giờ họ cũng tự đặt cho mình các câu hỏi liên quan đến việc tại sao cứ phải giải quyết công chuyện theo cách này mà không phải theo cách kia; bao giờ họ cũng hăm hở tìm cách sáng kiến ra và áp dụng các giải pháp mới mẻ vào công việc họ đang làm.
Lấy thí dụ, anh quản lý một hãng mỹ phẩm kia cảm thấy bực bội vì luôn phải đợi đến hai tuần lễ mới nhận được bản báo cáo kết quả kinh doanh của các nhân viên anh. Cuối cùng, anh đã cất công tìm ra và cho lắp đặt một hệ thống điện thoại vận hành bằng kỹ thuật tự động; hệ thống này sẽ tự động gửi tin nhắn đến các nhân viên bán hàng vào lúc 5 giờ chiều hằng ngày, nhắc nhở họ báo cáo ngay kết quả kinh doanh - số cuộc điện thoại họ đã gọi để giao dịch, và số sản phẩm họ đã bán ra được - trong ngày. Hệ thống này đã giúp rút ngắn lại thời gian báo cáo kết quả kinh doanh từ mấy tuần lễ xuống còn mấy giờ đồng hồ.
Câu chuyện này còn minh họa hai nét đặc trưng khác, thường thấy nơi những người có động lực đạt đến thành tựu: họ không ngừng tìm cách nâng cao mức xà năng suất làm việc, và họ thích giữ vững các bước tiến bộ đã đạt được.
Trước hết hãy xét đến mức xà năng suất. Trong các cuộc duyệt kiểm năng suất làm việc, có thể những người có động lực thúc đẩy ở mức độ cao thường đề nghị cấp trên cứ việc "khai thác triệt để" khả năng của họ. Một nhân viên kết hợp được khả năng ý thức về mình với động lực thúc đẩy bên trong bản thân, tất nhiên sẽ nhận biết rõ những giới hạn của mình - tuy nhiên, cũng không vì thế mà anh ta đặt ra các mục tiêu quá dễ đạt đến.
Và điều này tất sẽ dẫn đến điều tiếp theo: những người được thôi thúc cải thiện năng suất làm việc cũng muốn tìm cách theo dõi bước tiến bộ - của chính họ, của đội ngũ họ, và của công ty họ. Trong khi những người có động lực thúc đẩy ở mức độ thấp thường cảm thấy rối mù về các kết quả đạt được, thì ngược lại, những người có động lực cao trong việc vươn đến thành tựu thường ra sức giữ vững các bước tiến bộ của mình bằng cách theo sát các tiêu chuẩn đánh giá khắt khe như mức độ lợi nhuận hay tình trạng phân khúc thị trường.
Tôi có biết một nhà quản lý tài chính kia - thường bắt đầu và kết thúc ngày làm việc của mình trên mạng Internet - luôn dành thì giờ hằng ngày để đánh giá tình trạng vận hành của quỹ vốn anh đang đầu tư dựa theo bốn tiêu chuẩn được đặt ra trong ngành công nghiệp.
Có điều thú vị là những người có động lực thúc đẩy cao luôn giữ được thái độ lạc quan cả khi họ không đạt được bước tiến bộ nào. Trong trường hợp đó, sự tự chủ bắt tay kết hợp với động lực thúc đẩy để giúp họ vượt qua được cảm giác thất vọng và chán nản là thứ sẽ xuất hiện sau một bước lùi hay thất bại nào đó.
Đến đây, hãy xét trường hợp một nhà quản lý danh mục vốn đầu tư khác đang làm việc tại một hãng đầu tư có quy mô lớn. Sau mấy năm trời vận hành hiệu quả, quỹ đầu tư cô quản lý bỗng chốc mà rơi vào tình trạng tuột phanh và sụt dốc thê thảm trong liên tục ba quý liền, dẫn đến sự việc ba công ty khách hàng lớn quyết định rút vốn và đi làm ăn ở chỗ khác.
Có thể một số nhà điều hành sẽ tìm cách đổ lỗi, cho rằng tình trạng sụt dốc kia là do các hoàn cảnh khách quan họ không kiểm soát được; có thể một số người khác lại nhìn vào nó như là bằng chứng nói lên sự thất bại về phần cá nhân họ. Tuy nhiên, nhà quản lý danh mục vốn đầu tư nêu trên đã nhìn thấy nơi tình trạng ấy một cơ hội để chứng minh cho người ta thấy rằng cô có khả năng xoay chuyển tình thế.
Hai năm sau đó, khi được cất nhắc vào một chức vụ thuộc hàng cao cấp nhất trong công ty, cô đã mô tả lại cái tạm gọi là thất bại mình đã trải qua, cho rằng đó là "điều tốt nhất tôi từng có được; từ nó, tôi rút ra được rất nhiều bài học có giá trị lớn lao".
Các nhà điều hành đang ra sức tìm kiếm để nhận ra những người có động lực thúc đẩy cao nhắm đến thành tựu, có thể nhìn vào miếng ghép cuối cùng này: thái độ tận tụy dấn thân cho tổ chức. Một khi biết yêu thích công việc mình làm vì chính nó, chứ không còn vì điều gì khác, thường thì người ta sẽ cảm thấy mình muốn tận tâm gắn bó với tổ chức đang giúp mình có được điều đó. Các nhân viên có thái độ tận tụy dấn thân như thế chắc chắn sẽ trung thành gắn bó với tổ chức cả khi những hãng săn đầu người cứ bám riết lấy họ, dùng tiền bạc mà thuyết phục họ rời bỏ tổ chức mình.
Không khó mấy để hiểu ra được lý do tại sao và làm thế nào mà động lực thúc đẩy nhắm đến mục đích thành tựu lại trở thành một thứ yếu tố giữ vai trò hết sức quan trọng trong nghệ thuật lãnh đạo đến vậy. Nếu đã đặt cho mình một mức xà năng suất làm việc cao, tất bạn cũng sẽ làm điều tương tự như thế cho tổ chức của bạn khi bạn ở vào một cương vị để làm điều đó.
Cũng vậy, một động lực đạt đến mức vượt trên các mục tiêu đã định và một mối lưu tâm đặt vào việc giữ vững bước tiến bộ đã đạt, là điều gì đó có tính cách lan truyền. Các nhà lãnh đạo hội đủ nơi mình các nét đặc trưng ấy, thường có thể quy tụ được quanh mình một đội ngũ các nhà quản lý mang cùng các nét đặc trưng như thế.
Và tất nhiên, thái độ lạc quan và hành động tận tụy dấn thân cho tổ chức cũng là những gì có tính cách nền tảng trong nghệ thuật lãnh đạo - cứ thử tưởng tượng ra việc người lãnh đạo một công ty nào đó không có đủ các phẩm chất này, tất bạn sẽ thấy công ty ấy đang tiến bước về đâu.
Kỹ năng xã hội
Ba yếu tố đầu tiên làm nên trí tuệ cảm xúc là các kỹ năng về sự tự quản bản thân (self-management). Hai yếu tố sau hết - tức là sự thấu cảm và kỹ năng xã hội - lại có liên quan đến khả năng làm chủ các mối quan hệ giữa mình với những người khác. Với vai trò là một yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc, kỹ năng xã hội không hề là thứ gì đó đơn giản như thoạt nghe.
Nó không đơn thuần chỉ xoay quanh tính cách thân thiện mặc dầu những người có kỹ năng xã hội ở các mức độ cao thường hiếm khi nào có thái độ nhỏ nhen, ác ý. Đúng hơn, kỹ năng xã hội là sự thân thiện có kèm theo nó một mục đích: thúc đẩy những người khác đi theo hướng bạn muốn, dù đó là thái độ đồng tình về một chiến lược tiếp thị theo đường hướng mới, hoặc thái độ hưởng ứng đối với việc cho ra đời một sản phẩm mới.
Những người có kỹ năng xã hội thường tạo ra được một phạm vi rộng các mối quan hệ quen biết, và họ có tài tìm ra được tiếng nói chung với hết mọi loại người khác nhau - nói cách khác, họ có sở trường trong việc tạo ra tình trạng đồng thuận. Điều này không có nghĩa rằng họ không ngừng tìm cách xã hội hóa tiếng nói đồng thuận ấy, nhưng có nghĩa rằng họ luôn hành động dựa theo cái giả thiết cho rằng không ai có thể một mình mà hoàn tất được những việc quan trọng. Những người này luôn có sẵn cho mình một mạng lưới các mối quan hệ, để khi cần làm việc gì đó thì họ có thể dùng đến được.
So với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc, thì kỹ năng xã hội nằm ở vị trí cao nhất. Thường dễ làm chủ được cách rất hiệu quả các mối quan hệ khi ta hiểu rõ và kiểm soát được các thứ cảm xúc nơi chính bản thân và có thể cảm thấu được tâm tư tình cảm của những người khác. Ngay cả động lực thúc đẩy cũng góp tay vào việc kiến thiết nên kỹ năng xã hội.
Phải nhớ rằng những người được thúc đẩy do lòng khát khao đạt đến thành tựu thường dễ có thái độ lạc quan, cả trong những lúc phải đối diện với tình trạng thoái bộ hoặc thất bại. Khi ta có tinh thần lạc quan, thì "nhiệt lực" của ta sẽ tỏa lan khắp trên các cuộc đối thoại cùng các cuộc giao tiếp xã hội khác ta thường gặp trong đời sống hằng ngày.
Vì là kết quả phát xuất từ các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc, nên kỹ năng xã hội là thứ ta có thể dễ dàng nhận ra, bởi nó cũng mang các nét đặc trưng của các yếu tố trí tuệ cảm xúc ta đã xem xét qua.
Chẳng hạn, những người có kỹ năng xã hội thường tỏ ra tinh thông nghệ thuật quản lý đội ngũ - tức là họ có khả năng thấu cảm trong thế giới công việc. Cũng thế, họ là những người lão luyện về khả năng thuyết phục người khác - một khả năng cho thấy có sự kết hợp giữa ý thức về bản thân, khả năng tự chủ và thấu cảm. Với các kỹ năng ấy, những người có tài thuyết phục thường biết, thí dụ, lúc nào thì nên dùng đến tình cảm và lúc nào thì nên dùng đến lý trí. Và khi được thể hiện rõ ra ngoài, động lực thúc đẩy sẽ làm cho những người có kỹ năng xã hội trở thành những người có khả năng hợp tác tuyệt vời; ngọn lửa đam mê họ dành cho công việc sẽ tỏa lan sang đến những người khác chung quanh.
Tuy nhiên, có đôi khi, kỹ năng xã hội biểu lộ mình ra dưới những hình thức đặc trưng mà các yếu tố trí tuệ cảm xúc khác lại không có được. Chẳng hạn, đôi lúc, có thể những người có kỹ năng xã hội dường như chẳng đang làm một công việc gì cả trong giờ làm việc ở công ty họ. Có vẻ như họ đang rỗi thì giờ lắm vậy - tán gẫu những chuyện không đâu ở hành lang với các đồng nghiệp khác, hoặc vui giỡn cười đùa với những người làm ra vẻ đang làm việc nhưng thực ra đang làm các chuyện linh tinh khác.
Dù vậy, không mang kiểu suy nghĩ cho rằng mình nhất thiết phải giới hạn lại phạm vi các mối quan hệ, những người có kỹ năng xã hội thường tìm cách mở rộng việc kiến thiết các mối liên hệ giao tiếp, bởi họ biết rằng có thể sẽ có ngày nào đó, họ cần đến sự giúp đỡ từ những người họ đang tiếp xúc làm quen trong chính hôm nay.
Thí dụ, hãy xem xét trường hợp một người điều hành bộ phận chiến lược tại một hãng sản xuất máy tính có quy mô toàn cầu. Vào năm 1993, anh tin chắc rằng trong tương lai, đường hướng hoạt động của công ty mình sẽ có dính dáng đến lĩnh vực Internet. Suốt quãng thời gian đến một năm sau đó, anh đã tìm ra được những người có cùng cái nhìn với anh, và anh đã dùng kỹ năng xã hội mình có mà quy tụ lại và thiết lập nên được một cộng đồng mạng ảo - bao gồm rất nhiều người thuộc nhiều trình độ, lĩnh vực công tác, và trong nhiều quốc gia - cùng chia sẻ một quan điểm chung về vấn đề ấy.
Tiếp đến, anh dùng đội ngũ không chính thức này và cho ra đời một trang web liên hiệp. Không có ngân sách hay được công nhận chính thức, nhưng bằng sáng kiến và nỗ lực hành động của mình, anh đã đăng ký cho công ty mình tham gia một cuộc hội nghị thường niên trong ngành công nghiệp Internet. Kêu gọi sự hưởng ứng và thuyết phục được các bộ phận khác nhau trong công ty đóng góp cho quỹ hoạt động của mình, anh đã tuyển được hơn 50 người từ hàng tá bộ phận ấy để tham gia hỗ trợ cho việc quảng bá công ty tại cuộc hội nghị kia.
Và kết quả rất đáng lưu ý: trong vòng một năm sau cuộc hội nghị lần ấy, đội ngũ của người điều hành này đã thiết đặt được một nền móng vững chắc để cho ra đời bộ phận đầu tiên chuyên về lĩnh vực Internet trong công ty anh, và anh chính thức được đặt vào chức vụ điều hành bộ phận mới này. Và để làm được như vậy, không tuân theo những gì có tính cách thói lệ, người quản lý này đã tìm cách đẩy mạnh và duy trì các mối quan hệ với người này người kia thuộc mọi bộ phận khác nhau trong tổ chức của mình.
Kỹ năng xã hội có được nhìn nhận như là yếu tố cốt lõi trong nghệ thuật lãnh đạo ở hầu hết các công ty hay không? Câu trả lời là có, đặc biệt khi đem nó so sánh với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc. Có vẻ như bằng trực giác, ai cũng biết rằng các nhà lãnh đạo cần phải biết cách làm chủ sao cho có hiệu quả các mối quan hệ của mình; không nhà lãnh đạo nào là một hòn đảo cô độc.
Nói cho cùng, một nhà lãnh đạo có bổn phận phải biết dùng người này kẻ kia để hoàn tất các công việc, và để làm được như vậy thì nhà lãnh đạo ấy cần phải có kỹ năng xã hội. Một nhà lãnh đạo không có khả năng thấu cảm sẽ không thể có được kỹ năng xã hội. Và động lực thúc đẩy của một nhà lãnh đạo sẽ hóa vô dụng nếu ông ta không đủ khả năng lan truyền nhiệt huyết của mình đến mọi người khác trong tổ chức. Kỹ năng xã hội giúp các nhà lãnh đạo thể hiện ra được trí tuệ cảm xúc của mình trong công việc.
Sẽ là dại dột nếu cứ quả quyết rằng chỉ số thông minh và khả năng chuyên môn không hề đóng lấy một vai trò quan trọng nào trong nghệ thuật lãnh đạo. Tuy thế, cũng phải nói cho rõ rằng nghệ thuật lãnh đạo hẳn sẽ còn có chỗ khiếm khuyết nếu thiếu mất đi một thành phần quan trọng khác là trí tuệ cảm xúc.
Từng có lúc người ta cho rằng các yếu tố trí tuệ cảm xúc là thứ phẩm chất mà một nhà lãnh đạo doanh nghiệp "có được thì tốt." Tuy nhiên, giờ đây, với những gì đã thấy được qua cuộc khảo sát về năng suất làm việc, chúng ta biết rằng chúng là thứ phẩm chất mà các nhà lãnh đạo "buộc phải có mới được."
Chẳng hạn, những người có kỹ năng xã hội thường tỏ ra tinh thông nghệ thuật quản lý đội ngũ - tức là họ có khả năng thấu cảm trong thế giới công việc. Cũng thế, họ là những người lão luyện về khả năng thuyết phục người khác - một khả năng cho thấy có sự kết hợp giữa ý thức về bản thân, khả năng tự chủ và thấu cảm. Với các kỹ năng ấy, những người có tài thuyết phục thường biết, thí dụ, lúc nào thì nên dùng đến tình cảm và lúc nào thì nên dùng đến lý trí. Và khi được thể hiện rõ ra ngoài, động lực thúc đẩy sẽ làm cho những người có kỹ năng xã hội trở thành những người có khả năng hợp tác tuyệt vời; ngọn lửa đam mê họ dành cho công việc sẽ tỏa lan sang đến những người khác chung quanh.
Tuy nhiên, có đôi khi, kỹ năng xã hội biểu lộ mình ra dưới những hình thức đặc trưng mà các yếu tố trí tuệ cảm xúc khác lại không có được. Chẳng hạn, đôi lúc, có thể những người có kỹ năng xã hội dường như chẳng đang làm một công việc gì cả trong giờ làm việc ở công ty họ. Có vẻ như họ đang rỗi thì giờ lắm vậy - tán gẫu những chuyện không đâu ở hành lang với các đồng nghiệp khác, hoặc vui giỡn cười đùa với những người làm ra vẻ đang làm việc nhưng thực ra đang làm các chuyện linh tinh khác.
Dù vậy, không mang kiểu suy nghĩ cho rằng mình nhất thiết phải giới hạn lại phạm vi các mối quan hệ, những người có kỹ năng xã hội thường tìm cách mở rộng việc kiến thiết các mối liên hệ giao tiếp, bởi họ biết rằng có thể sẽ có ngày nào đó, họ cần đến sự giúp đỡ từ những người họ đang tiếp xúc làm quen trong chính hôm nay.
Thí dụ, hãy xem xét trường hợp một người điều hành bộ phận chiến lược tại một hãng sản xuất máy tính có quy mô toàn cầu. Vào năm 1993, anh tin chắc rằng trong tương lai, đường hướng hoạt động của công ty mình sẽ có dính dáng đến lĩnh vực Internet. Suốt quãng thời gian đến một năm sau đó, anh đã tìm ra được những người có cùng cái nhìn với anh, và anh đã dùng kỹ năng xã hội mình có mà quy tụ lại và thiết lập nên được một cộng đồng mạng ảo - bao gồm rất nhiều người thuộc nhiều trình độ, lĩnh vực công tác, và trong nhiều quốc gia - cùng chia sẻ một quan điểm chung về vấn đề ấy.
Tiếp đến, anh dùng đội ngũ không chính thức này và cho ra đời một trang web liên hiệp. Không có ngân sách hay được công nhận chính thức, nhưng bằng sáng kiến và nỗ lực hành động của mình, anh đã đăng ký cho công ty mình tham gia một cuộc hội nghị thường niên trong ngành công nghiệp Internet. Kêu gọi sự hưởng ứng và thuyết phục được các bộ phận khác nhau trong công ty đóng góp cho quỹ hoạt động của mình, anh đã tuyển được hơn 50 người từ hàng tá bộ phận ấy để tham gia hỗ trợ cho việc quảng bá công ty tại cuộc hội nghị kia.
Và kết quả rất đáng lưu ý: trong vòng một năm sau cuộc hội nghị lần ấy, đội ngũ của người điều hành này đã thiết đặt được một nền móng vững chắc để cho ra đời bộ phận đầu tiên chuyên về lĩnh vực Internet trong công ty anh, và anh chính thức được đặt vào chức vụ điều hành bộ phận mới này. Và để làm được như vậy, không tuân theo những gì có tính cách thói lệ, người quản lý này đã tìm cách đẩy mạnh và duy trì các mối quan hệ với người này người kia thuộc mọi bộ phận khác nhau trong tổ chức của mình.
Kỹ năng xã hội có được nhìn nhận như là yếu tố cốt lõi trong nghệ thuật lãnh đạo ở hầu hết các công ty hay không? Câu trả lời là có, đặc biệt khi đem nó so sánh với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc. Có vẻ như bằng trực giác, ai cũng biết rằng các nhà lãnh đạo cần phải biết cách làm chủ sao cho có hiệu quả các mối quan hệ của mình; không nhà lãnh đạo nào là một hòn đảo cô độc.
Nói cho cùng, một nhà lãnh đạo có bổn phận phải biết dùng người này kẻ kia để hoàn tất các công việc, và để làm được như vậy thì nhà lãnh đạo ấy cần phải có kỹ năng xã hội. Một nhà lãnh đạo không có khả năng thấu cảm sẽ không thể có được kỹ năng xã hội. Và động lực thúc đẩy của một nhà lãnh đạo sẽ hóa vô dụng nếu ông ta không đủ khả năng lan truyền nhiệt huyết của mình đến mọi người khác trong tổ chức. Kỹ năng xã hội giúp các nhà lãnh đạo thể hiện ra được trí tuệ cảm xúc của mình trong công việc.
Sẽ là dại dột nếu cứ quả quyết rằng chỉ số thông minh và khả năng chuyên môn không hề đóng lấy một vai trò quan trọng nào trong nghệ thuật lãnh đạo. Tuy thế, cũng phải nói cho rõ rằng nghệ thuật lãnh đạo hẳn sẽ còn có chỗ khiếm khuyết nếu thiếu mất đi một thành phần quan trọng khác là trí tuệ cảm xúc.
Từng có lúc người ta cho rằng các yếu tố trí tuệ cảm xúc là thứ phẩm chất mà một nhà lãnh đạo doanh nghiệp "có được thì tốt." Tuy nhiên, giờ đây, với những gì đã thấy được qua cuộc khảo sát về năng suất làm việc, chúng ta biết rằng chúng là thứ phẩm chất mà các nhà lãnh đạo "buộc phải có mới được."
May thay, trí tuệ cảm xúc là thứ ta có thể nhờ luyện tập mà có được. Tiến trình luyện tập ấy chắc chắn không dễ dàng chút nào. Nó cần đến thời gian và, trên hết tất cả, thái độ cam kết đến cùng. Nhưng dù gì, những ích lợi nó mang lại - cho cả cá nhân lẫn tổ chức - thật đáng để ta phải bỏ công tập luyện.
Năm yếu tố của trí tuệ cảm xúc trong công việc:
Có thể luyện tập để có được Trí tuệ Cảm xúc không?
Từ lâu, người ta đã tranh luận với nhau về việc các phẩm chất lãnh đạo là do bẩm sinh hay do tập luyện mà có. Và như thế, người ta cũng bàn cãi với nhau về trí tuệ cảm xúc. Chẳng hạn, liệu một số người sinh ra đã có sẵn nơi mình khả năng thấu cảm ở các mức độ nhất định nào đó, hay đó là khả năng họ thủ đắc được qua các kinh nghiệm sống? Câu trả lời là cả hai.
Khoa học đã chứng minh và hùng hồn quả quyết rằng trí tuệ cảm xúc có một phần là do di truyền. Các cuộc nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý và phát triển đã cho thấy rằng việc bồi đắp vun xây cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Trí tuệ cảm xúc có bao nhiêu phần trăm do di truyền và bao nhiêu phần trăm do được bồi đắp qua kinh nghiệm sống: đó là điều sẽ không bao giờ có ai biết được; tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu và thực tế đã rõ ràng cho thấy rằng người ta hoàn toàn có thể tập luyện để có được một trí tuệ cảm xúc.
Đây là điều chắc chắn: Trí tuệ cảm xúc gia tăng theo độ tuổi. Có hai chữ xưa nay người ta vẫn quen dùng để nói lên hiện tượng "gia tăng theo độ tuổi": trưởng thành. Tuy vậy, cả khi đã trưởng thành, một số người vẫn cần phải tiếp tục tập luyện để gia tăng được trí tuệ cảm xúc của mình. Điều đáng buồn là từ trước đến nay, có nhan nhản các thứ chương trình huấn luyện nhắm đến việc giúp xây dựng các kỹ năng lãnh đạo - kể cả trí tuệ cảm xúc - đã làm lãng phí của người ta thì giờ và tiền của. Vấn đề rất đơn giản như sau: Họ tập trung sai vào phần não bộ cần phát triển.
Trí tuệ cảm xúc phần lớn được sinh ra nhờ chất dẫn truyền thần kinh của hệ thống não rìa (limbic system) là hệ thống có chức năng chi phối các cảm giác, các xung động và thúc đẩy. Nhiều cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng hệ thống não rìa có thể vận hành cách tối ưu nhất nhờ động lực thúc đẩy, việc thực hành mở rộng và sự phản hồi.
Hãy thử so sánh cách vận hành này với kiểu vận hành nơi vùng tân vỏ não (neocortex) là vùng điều khiển các khả năng phân tích và kỹ thuật. Vùng tân vỏ não thâu lấy những gì thuộc về ý niệm và lý luận. Đó là phần não giúp cho ta có thể nhờ việc đọc một cuốn sách hướng dẫn mà hiểu ra cách dùng một chiếc máy vi tính hoặc biết cách thực hiện một cuộc gọi kinh doanh. Không có gì đáng ngạc nhiên - nhưng lại là điều sai lầm - việc hầu hết các chương trình huấn luyện giúp nâng cao trí tuệ cảm xúc lại tập trung cả vào vùng não này.
Trên thực tế, cuộc nghiên cứu của tôi - được tiến hành cùng với Nhóm Chuyên trách Nghiên cứu về Trí tuệ Xúc cảm Trong các Tổ chức - đã cho thấy rằng các chương trình huấn luyện theo kiểu tập trung tiếp cận vùng tân võ não như thế không những không giúp nâng cao được trí tuệ cảm xúc, mà còn tạo ra một tác động tiêu cực lên trên năng suất làm việc của nhiều người.
Để nâng cao được trí tuệ cảm xúc, các tổ chức cần thiết phải tái điều chỉnh đường hướng huấn luyện mà bổ sung thêm vào chương trình của mình cách thức tiếp cận hệ thống não rìa. Họ phải giúp những người khác phá bỏ những thói quen cư xử cũ kỹ và tập nên các thói quen cư xử mới mẻ. So với các chương trình huấn luyện theo đường hướng cũ, cách thức huấn luyện mới này không những đòi hỏi phải có thêm nhiều thời gian hơn, mà còn đòi hỏi phải có một phương pháp nhắm đến từng cá nhân nữa.
Thử hình dung một người điều hành bị các đồng nghiệp mình coi là thiếu độ thấu cảm. Một phần thiếu hụt ấy biểu hiện nơi việc cô không có khả năng lắng nghe; cô thường ngắt lời người khác và không mấy tập trung theo dõi những gì người khác đang nói. Để khắc phục phần thiếu sót này, người điều hành ấy cần phải có được động lực để thay đổi và, tiếp nữa, cô cần thực hành và tập nhận phản hồi từ những người khác trong công ty. Cô có thể nhờ một đồng nghiệp hay một người làm công tác huấn luyện kèm cặp lên tiếng nhắc nhở vào mỗi khi cô tỏ ra thiếu tập trung trong việc lắng nghe người khác như thế.
Tiếp đó, cô cần nhìn lại thái độ cư xử ấy của mình và tìm ra cách cải thiện nó để có thể biết cách lắng nghe người khác cho tốt hơn trong những lần sau. Và cô cần được hướng dẫn để quan sát một số người làm công tác điều hành có khả năng lắng nghe tốt nhằm học hỏi và bắt chước cách ứng xử của họ.
Và thái độ kiên trì và nỗ lực thực hành, một tiến trình như thế có thể đưa đến những kết quả tốt đẹp về lâu dài. Tôi biết một nhà điều hành làm việc ở Phố Wall đã tìm đủ mọi cách để cải thiện khả năng thấu cảm của mình - đặc biệt là khả năng đọc được thái độ phản ứng của những người khác và hiểu ra những gì họ đang suy nghĩ.
Vào thời gian trước lúc ông bắt đầu tập luyện khả năng này, những thuộc cấp của ông luôn cảm thấy khiếp hãi khi làm việc với ông. Thậm chí nhiều người thường tìm cách lảng tránh ông, không dám nói những cảm nghĩ thật của họ về ông. Và cuối cùng, tự ông cũng cảm nhận được thực tế ấy và lấy làm buồn khổ.
Rồi nhờ đến sự giúp đỡ của một người làm công tác huấn luyện cá nhân, ông bắt đầu áp dụng các biện pháp giúp cải thiện khả năng thấu cảm qua việc thực hành và nhận phản hồi từ những người khác. Ông phải thực hiện bước đầu tiên là làm một chuyến đi nghỉ ở nước ngoài, đến một đất nước ông không thể dùng được thứ tiếng ông nói để làm cho người khác hiểu ông.
Và trong thời gian ở đó, ông đã để ý quan sát các phản ứng của mình trước những người xa lạ, cũng như khả năng cởi mở của ông trước những người khác biệt với ông. Lúc trở về nhà, trở nên khiêm nhường hơn sau một tuần đi nghỉ như thế ở nước ngoài, nhà điều hành này đề nghị người huấn luyện ông lưu ý theo dõi để nhận xét xem cách ông cư xử với mọi người trong công ty có khác đi so với trước hay không.
Cùng lúc, ông cũng có ý thức tận dụng các cuộc giao tiếp về công việc, coi đó như cơ hội để thực hành việc "lắng nghe" những ý tưởng khác biệt với quan điểm của ông. Sau nữa, ông cũng cho ghi hình từng cuộc họp của mình, và đề nghị những người làm việc với và cho ông đưa ra nhận xét về khả năng ông nhận biết và nắm bắt tâm tâm tư cảm nghĩ của những người khác.
Phải mất hàng mấy tháng trời, nhưng cuối cùng rồi trí tuệ cảm xúc của nhà điều hành này cũng đã được nâng cao hơn trước, và bước cải thiện ấy đã được thể hiện rõ nơi năng suất làm việc hiệu quả hơn của ông.
Cần thiết phải nhấn mạnh rằng việc xây dựng trí tuệ cảm xúc không thể - và sẽ không - trở thành hiện thực được nếu như người ta không có đủ lòng chân thành khát khao, cũng như không biết bỏ ra công sức để liên tục thực hành. Việc tham dự một buổi hội thảo ngắn ngủi hướng dẫn cách thức nâng cao trí tuệ cảm xúc, sẽ chẳng đem lại được ích lợi gì; và người ta cũng không thể đọc xong một cuốn cẩm nang chỉ dẫn nào đó mà lập tức có được trí tuệ cảm xúc.
Ralph Waldo Emerson từng viết rằng: "Không có điều gì vĩ đại con người từng đạt đến được mà không có nhiệt tâm." Nếu cái đích bạn nhắm đến là trở thành một nhà lãnh đạo đích thực, thì câu danh ngôn vừa rồi có thể đóng vai trò như chiếc cột chỉ đường trong bước đường bạn nỗ lực để phát triển và có được một trí tuệ xúc cảm ở mức độ cao.
Nguồn: tuanvietnam.net
-Nguyễn Thế Tuấn Anh dịch
Daniel Goleman chính là người đầu tiên phổ biến rộng rãi thuật ngữ "trí tuệ cảm xúc" khi ông cho ra đời cuốn sách cùng tên, xuất bản năm 1995. Goleman cũng chính là người đầu tiên đem khái niệm này ứng dụng vào lĩnh vực kinh doanh, khởi đầu bằng bài viết đăng trên HBR năm 1998, là bài viết được giới thiệu với độc giả tại đây.
Tiến hành một cuộc khảo sát với gần 200 công ty lớn trên khắp thế giới, Goleman nhận thấy các phẩm chất xưa nay vẫn được coi là đi liền gắn chặt với nghệ thuật lãnh đạo - chẳng hạn trí thông minh, chí kiên cường, tính cương quyết, và tầm nhìn - tuy đúng là cần thiết cho bước đường thành công của một nhà lãnh đạo, nhưng vẫn chưa thể gọi là đủ. Để biết một nhà lãnh đạo thực sự có tài hay không, còn phải xét xem nhà lãnh đạo ấy có hay không một trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao, bao gồm khả năng ý thức về mình, khả năng tự chủ lấy mình, động lực hành động, khả năng thấu cảm, và kỹ năng xã hội.
Dù các phẩm chất vừa nêu nghe có vẻ "yếu ớt" và chẳng ăn nhập gì với lĩnh vực kinh doanh, nhưng Goleman đã khám phá mối liên hệ trực tiếp giữa trí tuệ cảm xúc và các kết quả kinh doanh khả lường.
Trong khi mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc với lĩnh vực kinh doanh đã và đang tiếp tục làm khơi dậy nhiều cuộc tranh luận suốt trong sáu năm qua, thì bài viết của Goleman vẫn được lấy làm nguồn tham khảo về đề tài này, với một phác họa về từng phần cấu thành nên trí tuệ cảm xúc và một giảng giải chi tiết về cách thức giúp nhận ra nó nơi các nhà lãnh đạo tiềm năng, về việc do đâu mà nó có mối liên hệ với những thành công trong nghệ thuật lãnh đạo, cũng như việc mối liên hệ ấy thể hiện ra như thế nào, và về việc làm cách nào để phát triển được trí tuệ cảm xúc ấy.
Trong nghệ thuật lãnh đạo, chỉ số thông minh và các kỹ năng chuyên môn giữ một vai trò quan trọng; tuy nhiên, cái thiết yếu nhất, tuyệt đối không thể thiếu được, chính là Trí tuệ Cảm xúc (Emotional Intelligence).
Các doanh nhân đều biết câu chuyện một nhà quản lý xuất chúng về trí tuệ và sắc sảo về các kỹ năng chuyên môn, được cất nhắc vào một chức vụ lãnh đạo, nhưng lại thất bại khi ở trong vị trí mới đó. Và những người làm kinh doanh cũng đều biết câu chuyện về một ai đó có khả năng trí tuệ và các kỹ năng chuyên môn không lấy gì làm xuất sắc lắm, nhưng khi được cất nhắc vào vị trí lãnh đạo thì lại tung cánh bay cao, tiến từ hết thành công này đến thành công khác.
Những mẩu giai thoại như thế thường được rộng rãi truyền tai, góp phần làm củng cố lối suy nghĩ phổ biến cho rằng việc xác định các cá nhân mang "tố chất thích hợp" để trở thành lãnh đạo là cả một nghệ thuật, chứ không chỉ là vấn đề mang tính cách khoa học thuần túy. Và nói cho cùng, các phẩm chất cá nhân nơi những nhà lãnh đạo xuất chúng thường tỏ ra rất đa dạng: Một số nhà lãnh đạo mạnh về khả năng phân tích và có lối cư xử nhẹ nhàng; một số người khác lại có cách cư xử cứng rắn, kiểu ăn to nói lớn.
Và các tình huống quan trọng hay các hoàn cảnh khác nhau, đòi hỏi các dạng nghệ thuật lãnh đạo khác nhau. Hầu hết các hãng liên doanh đều cần đến một nhà lãnh đạo mềm dẻo và khéo léo về nghệ thuật đàm phán, trong khi nhiều hãng chuyên làm các dịch vụ bốc xếp hàng hóa thì lại cần đến một nhà lãnh đạo cứng rắn hơn, có khả năng "hét ra lửa".
Dù vậy, tôi lại nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo có năng lực làm việc hiệu quả nhất đều giống nhau ở điểm cốt yếu này: Hết thảy họ đều có một trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao. Đương nhiên, như thế không có nghĩa bảo rằng Chỉ số Thông minh (IQ) và các kỹ năng chuyên môn chẳng hề đóng lấy vai trò nào quan trọng. Thực sự cần thiết, nhưng về chính yếu, chúng được coi là "các tài năng khởi điểm," tức là những gì mang tính cách nền tảng, đòi hỏi phải có ngay từ các vị trí quản lý.
Tuy nhiên, cuộc khảo sát của tôi, cùng với các cuộc nghiên cứu khác được tiến hành trong thời gian gần đây, đã cho thấy rõ rằng trí tuệ cảm xúc là yếu tố tuyệt đối cần thiết phải có trong nghệ thuật lãnh đạo. Không có nó, thì một người nào đó dù có được huấn luyện tuyệt hảo đến đâu, dù có đầu óc phân tích sắc sảo đến độ nào, và dù có sản sinh được hằng hà vô số ý tưởng thông minh đi nữa, nhưng người ấy vẫn sẽ khó lòng trở thành một nhà lãnh đạo xuất chúng.
Trong những năm vừa qua, tôi cùng các cộng sự đã tiến hành một cuộc nghiên cứu, tập trung vào việc xem xét cách thức hoạt động của trí tuệ cảm xúc trong môi trường làm việc. Chúng tôi đã khảo sát mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc với năng lực làm việc hiệu quả, đặc biệt là nơi các người giữ vai trò lãnh đạo. Chúng tôi cũng để ý theo dõi cách thức biểu hiện qua công việc của trí tuệ cảm xúc này.
Bạn có thể nói thế nào đây khi gặp ai đó có trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao, và bạn làm cách nào để nhận biết trí tuệ cảm xúc ấy nơi chính bản thân bạn? Trong các phần dưới đây, cùng nhau tìm hiểu vấn đề này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc: khả năng ý thức về mình, khả năng tự chủ lấy mình, động lực hành động, khả năng thấu cảm, và kỹ năng xã hội.
Định vị giá trị của trí tuệ cảm xúc
Ngày nay, đa phần các công ty lớn đều tiến hành việc tuyển dụng các nhà tâm lý lành nghề để phát triển một "mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc" nhằm hỗ trợ họ trong việc nhận diện, huấn luyện và thăng cấp cho các ngôi sao có khả năng tỏa sáng trong bầu trời lãnh đạo. Các nhà tâm lý học cũng đã phát triển những mô hình kiểu mẫu như thế dành cho các vị trí làm việc thấp hơn.
Và trong mấy năm gần đây, tôi đã thử phân tích các mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc ấy nơi 188 công ty - hầu hết là những hãng lớn và có quy mô toàn cầu, kể cả các hãng đại loại như Lucen Technologies, British Airways, và Credit Suisse.
Trong quá trình tiến hành cuộc phân tích, mục tiêu tôi nhắm tới là tìm cách xác định cho biết những năng lực cá nhân nào - cũng như ở mức độ nào thì chúng - có tác động thúc đẩy và giúp tạo ra năng suất làm việc tốt nhất trong lòng các công ty này.
Tôi chia các dạng năng lực cá nhân ấy thành ba loại: các kỹ năng thuần túy chuyên môn, chẳng hạn như khả năng tính toán và vạch kế hoạch kinh doanh; các năng lực nhận thức, như khả năng phân tích và lập luận; và các khả năng biểu thị trí tuệ cảm xúc, chẳng hạn như khả năng làm việc nhóm, khả năng tạo ra các bước thay đổi có hiệu quả.
Để lập nên một số mô hình kiểu mẫu về sự thành thạo trong công việc, các nhà tâm lý học đã đề nghị các nhà quản lý cấp cao tại các công ty ấy xác định và nêu lên những khả năng được coi là đặc trưng nơi các nhà lãnh đạo xuất sắc nhất trong công ty mình. Để tạo ra các mô hình kiểu mẫu khác, các nhà tâm lý học đã dựa vào các tiêu chuẩn khách quan, chẳng hạn như mức độ lợi nhuận một bộ phận nào đó trong công ty tạo ra được, nhằm phân biệt ra những người làm việc hiệu quả nhất ở các vị trí cao cấp trong công ty với những người có năng suất làm việc ở vào mức độ trung bình.
Tiếp đó, các cá nhân nổi bật này sẽ trải qua thêm các cuộc phỏng vấn và kiểm tra; và các khả năng của từng người này sẽ được đem so sánh với nhau. Và cuối cùng, một danh sách sẽ được lập ra, liệt kê những phẩm chất dành cho các nhà lãnh đạo tài ba. Danh sách này có độ dài từ bảy đến 15 mục, bao gồm cả những phẩm chất như là óc sáng kiến và tầm nhìn chiến lược.
Bắt tay vào việc phân tích các dữ liệu ấy, tôi đã thu được các kết quả rất ấn tượng. Lẽ tất nhiên, khả năng trí tuệ là thứ yếu tố thúc đẩy tạo ra năng suất làm việc nổi bật. Các kỹ năng nhận thức - chẳng hạn như lối tư duy bao quát tổng thể và tầm nhìn dài hạn - đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng đến khi tính toán tỷ lệ giữa các kỹ năng chuyên môn, chỉ số thông minh, và trí tuệ cảm xúc - tức là các yếu tố tạo nên năng suất làm việc đỉnh cao - tôi nhận thấy trí tuệ cảm xúc giữ một vị trí quan trọng ở mức độ gấp đôi so với các yếu tố còn lại xét ở mọi cấp độ công việc.
Ngoài ra, cuộc phân tích của tôi cũng đã cho thấy rằng trí tuệ cảm xúc càng đóng một vai trò quan trọng bội phần đối với các vị trí cao cấp nhất trong công ty, bởi ở trong các vị trí cao cấp nhất này, mức độ khác biệt về các kỹ năng chuyên môn không còn là điều quan trọng đáng kể nữa.
Nói cách khác, một người được coi là làm việc hiệu quả hễ có chức vụ càng cao, thì các khả năng thuộc trí tuệ cảm xúc càng được thể hiện rõ ra, và chúng chính là nguyên nhân tạo ra khả năng làm việc hiệu quả ấy của anh ta. So sánh những người có năng suất làm việc cao với những người có năng suất làm việc trung bình ở các vị trí lãnh đạo cao cấp, tôi nhận thấy rằng 90% sự khác biệt giữa họ không nằm ở các khả năng nhận thức, mà hệ tại các yếu tố thuộc trí tuệ cảm xúc.
Các nhà nghiên cứu khác cũng quả quyết rằng không những là yếu tố giúp nhận ra được nét khác biệt giữa các nhà lãnh đạo lỗi lạc, mà trí tuệ cảm xúc còn có mối liên hệ gắn liền với năng suất làm việc hữu hiệu nữa. Các khám phá của David McClelland - một nhà nghiên cứu lừng danh, đã qua đời, chuyên về lĩnh vực hành vi ứng xử của con người và tổ chức - sẽ giúp minh họa rõ nét về điều này.
Trong cuộc nghiên cứu được tiến hành vào năm 1966, tại một hãng thực phẩm và nước giải khát có quy mô toàn cầu, McClelland đã khám phá ra rằng đối với các nhà quản lý cao cấp có được nơi mình một số khả năng trí tuệ cảm xúc chủ đạo, thì các bộ phận họ quản lý đều gia tăng được năng suất làm việc và đạt vượt mức chỉ tiêu lợi nhuận hằng năm đến 20%.
Trong khi đó, đối với những người lãnh đạo không có được các khả năng trí tuệ cảm xúc chủ đạo kia, thì các chi nhánh họ lãnh đạo lại làm việc với năng suất kém thua cũng gần như đến con số phần trăm vừa nêu. Một điều thú vị là các khám phá ấy của McClelland không những đúng đối với các chi nhánh của hãng này ở Mỹ, mà còn đúng đối với các chi nhánh của nó ở Âu châu và Á châu nữa.
Tóm lại, các con số ấy bắt đầu kể ta nghe một câu chuyện thuyết phục về mối liên hệ giữa sự thành công của một công ty với trí tuệ xúc cảm nơi các nhà lãnh đạo của nó. Và cũng quan trọng không kém, cuộc nghiên cứu kia cũng cho thấy rằng nếu nắm được phương pháp thích hợp, người ta có thể phát triển được trí tuệ cảm xúc của mình.
Khả năng ý thức về mình
Khả năng ý thức về mình - hay khả năng tự ý thức - là yếu tố đầu tiên thuộc trí tuệ cảm xúc. Có khả năng ý thức về mình, nghĩa là ta có được một sự hiểu biết rõ ràng về những cảm xúc, sở trường, sở đoản, các nhu cầu, các khuynh hướng và động lực của bản thân. Những người có khả năng tự ý thức cao độ thường không có thái độ phê bình thái quá, cũng không đặt hy vọng vào những gì viễn vông, phi thực. Trái lại, họ giữ được thái độ ngay thực - với chính mình và với những người khác.
Những người có ý thức cao độ về mình thường nhận biết rõ việc các cảm xúc của họ có tác động ra sao đối với chính họ, đối với những người khác, và đối với năng suất làm việc của họ. Bởi đó, trong công việc, người biết ý thức về mình luôn cẩn thận sắp xếp thì giờ và nỗ lực hoàn thành tốt công việc mình trước thời hạn cuối cùng, vì biết rằng tình trạng đợi nước đến chân mới chịu nhảy chỉ tổ đem lại cho mình điều tồi tệ nhất mà thôi.
Người có ý thức cao độ về mình cũng sẽ biết được cách xử sự phải lẽ với một khách hàng khó tính. Anh ta sẽ hiểu được thái độ cư xử của người khách hàng ấy, biết rõ việc nó có tác động ra sao đến tâm trạng của mình, cũng như nắm rõ các nguyên do sâu xa hơn làm cho mình có cảm giác thất vọng về người khách hàng ấy.
"Những đòi hỏi vặt vãnh của họ khiến chúng ta quên mất đi công việc thực tế cần phải hoàn thành," anh ta có thể giải thích như thế. Và rồi anh ta sẽ tiến thêm một bước nữa, biến cảm giác giận dữ của mình thành thái độ mang tính cách tích cực, xây dựng.
Khả năng tự ý thức còn giúp ta hiểu rõ các giá trị mình có, cũng như các mục tiêu mình đặt ra và vươn tới. Người có ý thức cao độ về mình luôn biết rõ việc mình đang tiến bước về đâu, và vì đâu mà mình làm như thế; do vậy, chẳng hạn, người đó, sẽ cương quyết chối từ một công việc hấp dẫn được đề nghị, vì tuy có thể mang lại một mức thu nhập cao hơn, nhưng công việc ấy lại không phù hợp với các nguyên tắc hay mục tiêu dài hạn anh ta đã vạch ra.
Còn một người thiếu ý thức về mình thường có xu hướng đưa ra các quyết định này kia mà không kể gì đến các giá trị bản thân, để rồi làm cho tâm hồn mình phải rơi vào tình trạng bất an, rối rắm. Sau hai năm làm một công việc nào đó, người này có thể thốt lên rằng: "Hồi đó, thấy có thể kiếm tiền ngon lành, nên tôi mới bắt tay vào công việc này, chứ thực ra nó chẳng có ý nghĩa gì với tôi, khiến lúc nào tôi cũng thấy chán chường muốn chết".
Các quyết định của những người biết ý thức về mình bao giờ cũng đi liền gắn chặt với các giá trị bản thân họ; và nhờ vậy, bao giờ họ cũng tìm được cho mình nguồn hứng khỏi và tinh thần hăng say trong mọi công việc họ làm.
Làm cách nào để nhận diện được cái khả năng tự ý thức kia? Đầu tiên và trước hết, sự tự ý thức ấy thể hiện ra ở tính cách ngay thẳng và bộc trực của một con người, cũng như ở khả năng người đó có trong việc tự đánh giá cách đúng đắn và thực tế về bản thân mình. Những người biết ý thức cao độ về mình có thể trò chuyện cách thẳng thắn và cởi mở - dù không nhất thiết phải theo kiểu tỉ tê kể lể hay phơi ruột mình ra - về những tâm tư tình cảm của họ, cũng như về sức tác động chúng có đối với công việc họ đang làm.
Chẳng hạn, một nhà quản lý tôi quen đang có thái độ lo lắng hoài nghi, không biết loại dịch vụ mới, dành cho khách mua hàng, mà công ty cô - một hệ thống cửa hàng bách hóa có quy mô lớn - tính cho ra đời, có thành hiện thực được hay không. Không đợi đến lúc người chủ hay đội ngũ nhân viên mình lên tiếng nhắc nhở hay thúc giục, cô đã tự mình đến gặp họ trước, và giải thích cho họ như sau: "Tôi thấy khó chịu với việc cứ kéo dài thời hạn tung ra dịch vụ ấy", cô thừa nhận, "bởi tôi thực sự muốn bắt tay chạy ngay dự án này, nhưng tiếc là tôi đã không được chọn. Xin hãy kiên nhẫn với tôi trong lúc tôi xử lý vấn đề này".
Người quản lý này đã thực sự xem xét kỹ lưỡng những gì cô cảm tưởng; và một tuần lễ sau đó, cô đã được giao cho toàn quyền bắt tay vào dự án kia.
Sự hiểu biết về bản thân như thế thường tự biểu hiện ra trong tiến trình thuê tuyển người làm. Hãy đề nghị một ứng viên kể lại về việc có một lúc nào đó anh ta không bận đoái hoài gì đến những tâm tư cảm nghĩ của mình và bắt tay vào làm điều gì đó, để rồi phải cảm thấy hối tiếc về sau.
Các ứng viên có ý thức về bản thân sẽ tỏ thái độ thẳng thắn mà thừa nhận tình cảnh thất bại của mình - và thường sẽ nở kèm một nụ cười trong khi kể lại câu chuyện về việc mình bị thất bại như thế. Khả năng dùng óc hài hước mà tự chế giễu lấy mình, chính là một trong những nét đặc trưng nổi bật của sự tự ý thức về bản thân.
Cũng có thể nhận diện được khả năng tự ý thức ấy qua các cuộc họp kiểm điểm về năng suất làm việc. Những người biết ý thức về mình luôn nắm rõ - và tỏ ra thoải mái khi nói về - các khuyết điểm và ưu điểm của họ, và họ thường cho thấy mình luôn mong muốn nhận được những lời phê bình có tính cách xây dựng. Trái lại, những người có ý thức về mình ở mức độ thấp thường coi những lời góp ý xây dựng như thứ gì đó gây đe dọa, hay như một dấu hiệu nói lên sự thất bại của họ.
Cũng có thể nhận biết những người có ý thức về bản thân qua sự tự tin họ thể hiện ra. Họ hiểu rõ các khả năng mình có, và bao giờ cũng biết tự lượng sức mình; họ không thổi phồng năng lực mình lên, cũng không vơ vào thân những việc vượt quá khả năng, để rồi phải loay hoay căng sức mình ra mà cuối cùng cũng chẳng thành công gì tất.
Bên cạnh đó, họ cũng biết nhờ người khác giúp đỡ hay hỗ trợ khi cần. Và họ có thể lường trước được những rủi ro sẽ gặp phải trong các công việc mình làm. Họ cũng sẽ không nhận một công việc nào đó được giao có tính cách cam go mà họ biết họ không thể một mình xoay sở nổi. Họ luôn biết hoạt động dựa theo năng lực đích thực của mình.
Thử xét xem trường hợp một cô nhân viên cấp trung được mời tham dự một cuộc họp bàn chiến lược với các người điều hành cấp cao trong công ty cô. Trong phòng họp, tuy là người có chức vụ nhỏ nhất, nhưng cô đã không vì thế mà tỏ thái độ khép nép sợ sệt để rồi chỉ biết khoanh tay ngậm miệng ngồi nghe. Cô biết rõ mình có óc tư duy sáng sủa, có cách suy luận mạch lạc, và có kỹ năng trình bày cách thuyết phục các ý tưởng trong đầu; và cô đã đưa ra được một số đề nghị rất đáng lưu ý về chiến lược của công ty. Cùng lúc, với khả năng hiểu biết về bản thân, cô đã không để mình đi lạc vào những vấn đề cô biết mình không nắm vững.
Đã làm rõ về giá trị hữu ích của việc các công ty có được cho mình những con người biết ý thức về bản thân, nhưng cuộc nghiên cứu của tôi lại cũng cho thấy điều này: đôi khi, trong lúc ra tay tìm kiếm những người lãnh đạo tiềm năng, các nhà điều hành cấp cao thường chẳng mấy coi trọng cho đủ giá trị của sự tự ý thức ấy.
Nhiều người làm công tác điều hành đã có cách nhìn nhận sai lầm, coi việc cởi mở tỏ bày cảm nghĩ tâm tư như là hành động biểu thị tính cách "yếu mềm/ nhu nhược," để rồi họ không dành đủ thái độ tôn trọng cho những nhân viên biết thẳng thắn mà thừa nhận các khuyết điểm của mình. Những nhân viên như thế thường bị đánh giá là "không có đủ cứng rắn" để có thể giữ vai trò lãnh đạo những người khác; và rốt cuộc, họ đã bị loại ra khỏi danh sách ứng viên cho chức vụ lãnh đạo.
Nhưng trên thực tế, điều ngược lại mới đúng. Về tổng quát mà nói, bao giờ người ta cũng tỏ thái độ tôn trọng và thán phục dành cho những con người có tính cách thẳng ngay. Hơn nữa, bao giờ các nhà lãnh đạo cũng buộc phải đưa ra những quyết định quan trọng vốn đòi hỏi phải dựa vào một sự đánh giá công minh về các khả năng - của chính họ và của những người khác.
Chúng ta có đủ khả năng thắng được đối thủ cạnh tranh hay không? Liệu trong vòng sáu tháng, chúng ta có tung ra được hay không, sản phẩm mới của mình? Những người biết trung thực đánh giá về bản thân - tức, nhưng người có khả năng ý thức về mình - chắc chắn sẽ đưa ra được cách đánh giá đúng đắn về các tổ chức họ đang điều hành.
Khả năng tự chủ
Các thúc đẩy sinh lý hướng dẫn cảm xúc của chúng ta. Không đủ sức loại bỏ chúng đi, nhưng ta có thể dùng nhiều cách để kiểm soát được chúng. Sự tự chủ - giống như một cuộc trò chuyện nội tâm liên tục - là một yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc, giúp ta không còn làm nô lệ cho các thứ cảm xúc mình nữa.
Hệt như mọi người khác, cũng có những cảm giác hay tâm trạng khó chịu, cũng cảm nhận được sức thúc đẩy của các thứ cảm xúc, nhưng những người biết đi vào các cuộc trò chuyện nội tâm như thế - tức là biết tự chủ - sẽ tìm ra được cách thức kiểm soát chúng, thậm chí còn biết chuyển hóa chúng, hướng chúng đến những gì hữu ích, tích cực.
Thử tưởng tượng ra hình ảnh một người điều hành vừa theo dõi xong buổi báo cáo chẳng ra hồn vía gì của nhóm nhân viên mình trước ban giám đốc công ty. Trong bầu không khí nặng nề ảm đạm sau buổi báo cáo ấy, có thể người điều hành kia thấy mình bị cám dỗ đập tay lên bàn hay đá văng chiếc ghế ngồi để trút ra cơn giận. Có thể anh ta sẽ muốn nhảy dựng lên và mắng xối xả vào mặt đám nhân viên anh coi là vô dụng kia. Hoặc cũng có thể anh sẽ vẫn ngồi im ra đó, hướng ánh mắt dữ tợn mà nhìn trừng trừng vào mặt từng người, rồi một mạch bước thẳng ra khỏi phòng, không một lời than thốt.
Tuy vậy, nếu có khả năng tự chủ, hẳn anh sẽ có cách xử sự khác đi. Hẳn anh không vội vàng nổi nóng hay hấp tấp đưa ra lời chỉ trích thiếu suy nghĩ, nhưng sẽ cẩn thận dùng những lời lẽ lịch sự để thẳng thắn phê bình các nhân viên ấy về cuộc báo cáo qua quít, lấy lệ kia. Anh sẽ bình tĩnh nhìn lại để xem xét các nguyên do đưa đến thất bại ấy: Lỗi là do các nhân viên đó - việc họ thiếu nỗ lực, chẳng hạn? Còn do một yếu tố nào khác bên cạnh? Trong lần thất bại này, anh có trách nhiệm gì không?
Sau khi kỹ lưỡng xem xét các câu hỏi này, anh sẽ tập hợp đội ngũ nhân viên mình lại, nêu rõ ra những hậu quả của lần thất bại này, rồi nói lên cảm nghĩ của mình về nó. Tiếp đó, anh sẽ phân tích cho họ thấy ra vấn đề và trình bày một giải pháp nào đó đã cân nhắc kỹ lưỡng nhằm khắc phục.
Vì lý do gì, sự tự chủ lại giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với các nhà lãnh đạo? Trước hết, những người kiểm soát được các cảm xúc và xung động thúc đẩy của mình - tức, những người biết kiềm chế bản thân mình - có thể tạo ra được một bầu không khí đầy ắp sự tin tưởng và công bằng. Trong một bầu không khí như thế, các cuộc cạnh tranh giữa các đảng chính trị, hay các cuộc đấu đá ngầm trong nội bộ một đảng chính trị, sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể, và khả năng cùng làm việc với nhau hiệu quả sẽ được nâng cao. Những người có tài sẽ lần lượt kéo nhau đầu quân vào tổ chức có được một bầu không khí như thế, và không bị cám dỗ phải rời bỏ tổ chức mình.
Và sự tự chủ ấy còn tạo ra được một hiệu ứng lan truyền. Không một thuộc cấp nào muốn bị coi là người nóng nảy trong khi ông chủ mình lúc nào cũng điềm tĩnh, ôn tồn. Hễ tâm trạng bất thường ở cấp trên càng bớt đi, thì cũng càng bớt đi cái tâm trạng như thế ở cấp dưới, và ở trong cả tổ chức.
Tiếp nữa, sự tự chủ đóng vai trò quan trọng xét vì các lý do liên quan đến những gì mang tính cạnh tranh. Ai cũng đều biết rằng thế giới kinh doanh ngày nay đang chứa trong nó đầy dẫy những thứ mơ hồ, nhập nhằng, và thay đổi. Các công ty đua nhau mọc lên, rồi cũng thi nhau mà rã đám: ấy là chuyện thường tình như cơm bữa hằng ngày. Nền công nghệ hiện đại đang khiến thế giới việc làm quay nhanh với tốc độ chóng mặt. Những ai làm chủ được các cảm xúc của mình, mới trụ vững được trong cái vòng quay tít mù như thế.
Lúc một chương trình mới mẻ nào đó được công bố ra, họ sẽ chẳng thấy hoang mang hay hốt hoảng; không vội vàng phàn nàn chỉ trích, họ sẽ bình tĩnh tìm kiếm thông tin, và lắng nghe những người điều hành giải thích về chương trình mới ấy. Và khi chương trình mới này được đưa ra áp dụng, những người này sẽ làm quen được với nó và sử dụng nó một cách hiệu quả.
Đôi khi, họ còn có thể đi được cả bước tiên phong nữa. Hãy xét xem trường hợp một nhà quản lý đang làm việc tại một xí nghiệp sản xuất lớn. Cũng như các đồng nghiệp của mình, suốt năm năm qua, cô vẫn dùng một chương trình phần mềm nhất định. Chương trình phần mềm ấy đã hỗ trợ cô trong việc thu thập dữ liệu và làm báo cáo, giúp ích cho cô rất nhiều trong bước đường cô suy nghĩ về chiến lược của xí nghiệp mình.
Một ngày nọ, ban quản lý cao cấp của xí nghiệp công bố sẽ tiến hành cài đặt một chương trình mới, một phần mềm được cho là có khả năng giúp thu thập và đánh giá thông tin cách hữu hiệu hơn. Trong lúc nhiều người khác ở xí nghiệp tỏ thái độ cay cú than phiền về bước thay đổi gây phiền hà kia, thì cô quản lý này vẫn tỏ ra bình tĩnh mà suy đi nghĩ lại về các lý do khiến cấp trên quyết định cho cài đặt chương trình mới ấy, và đã dần dần đi đến chỗ tin chắc vào khả năng nó sẽ giúp cải thiện được cách thức làm việc của mình.
Cô hào hứng tham dự các buổi huấn luyện về cách sử dụng phần mềm mới - trong khi một số đồng nghiệp của cô lại từ chối tham dự - và cuối cùng cô đã được giao cho nhiệm vụ quản lý một số bộ phận khác, một phần chính bởi vì cô đã sử dụng công nghệ mới này hết sức thành thạo và có hiệu quả.
Tôi muốn nêu bật hơn nữa tầm quan trọng của sự tự chủ là đức tính phải có nơi những người giữ vai trò lãnh đạo, và muốn làm rõ việc nó có thể giúp nâng cao được sự trọn vẹn và nhất quán (integrity) vốn không những là một đức tính của cá nhân nhưng còn là một thứ sức mạnh của tổ chức nữa. Nhiều chuyện tệ hại xảy ra trong lòng các công ty âu cũng là do bởi việc người này kẻ kia không làm chủ được sức thúc đẩy của các cảm xúc nơi mình.
Hiếm khi nào vì những mục tiêu ích kỷ mà người ta vạch hẳn hoi kế hoạch để thổi phồng lên các khoản lợi nhuận, độn thêm khoản này khoản kia vào bảng tính công tác phí, tìm cách rút xén công quỹ, hoặc lạm dụng quyền hành. Nói cho đúng, gặp cơ hội bày ra trước mắt, những người ít có khả năng kiểm soát sức thúc đẩy kia sẽ tra tay vào các hành động tiêu cực như vừa nêu.
Ngược lại, hãy xét hành động ứng xử của một nhà điều hành cấp cao tại một công ty thực phẩm lớn kia. Nhà điều hành này luôn giữ thái độ thẳng thắn và minh bạch trong những cuộc đàm phán thương lượng với các nhà phân phối địa phương. Anh thường trình bày cách chi tiết giá cả các loại mặt hàng, giúp các nhà phân phối kia nắm rõ thực tế về khung tính giá sản phẩm của công ty anh. Với cách làm này, hiếm khi nào anh gặp phải cảnh mặc cả trả giá gay go.
Cũng có đôi khi, anh cảm thấy một xung động thôi thúc anh tìm cách kiếm thêm lợi nhuận bằng việc giấu nhẹm đi thông tin về khung giá cả công ty anh đưa ra. Nhưng anh đã quyết liệt chống trả thứ xung động thúc đẩy ấy để không làm điều gian dối, tiêu cực kia. Khả năng kiềm chế cảm xúc như thế đã giúp anh xây dựng được các mối quan hệ bền chặt và lâu dài với những nhà phân phối, mang lại nhiều ích lợi đáng kể cho công ty anh: đây là điều anh sẽ không bao giờ có được nếu buông mình theo các thúc đẩy của cảm xúc để rồi chỉ biết tìm đến những khoản lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua đi các ích lợi lâu dài.
Như vậy, ta rất dễ nhận thấy các dấu hiệu biểu thị sự tự chủ về cảm xúc: một khuynh hướng trầm tư, ngẫm nghĩ thấu đáo; thái độ ung dung điềm tĩnh trước những gì lộn xộn và đổi thay; khả năng giữ được tính cách trọn vẹn và nhất quán nơi bản thân - biết nói không với các xung động thúc đẩy của cảm xúc.
Giống như sự ý thức về bản thân, sự tự chủ bản thân cũng thường không được nhìn nhận cho đúng với giá trị của nó. Những người làm chủ được các cảm xúc của mình đôi khi bị xem như những kẻ lạnh lùng, khô cứng - thái độ và hành động có suy xét của họ bị coi là cứng nhắc, thiếu cảm thông. Những ai có tính khí nóng nảy, dữ tợn lại thường được cầm như có tố chất lãnh đạo "cổ điển" - thái độ hung hăng của họ được cho là nét đặc trưng nổi bật biểu thị uy quyền và sức cuốn hút quần chúng.
Tuy nhiên, lúc những người này tiến lên được tới vị trí lãnh đạo, thì các xung động thúc đẩy nơi họ lại thường giở mặt "phản chủ." Qua cuộc nghiên cứu của mình, tôi nhận thấy rằng kiểu thái độ và hành động quá khích dựa theo những cảm xúc tiêu cực, không bao giờ giúp đưa người ta đi đến chỗ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất và tốt lành.
Động lực thúc đẩy
Nếu phải kể ra một nét đặc trưng nào đó mà hầu hết các nhà lãnh đạo tài ba đều có, thì đó chính là động lực thúc đẩy. Các nhà lãnh đạo này được thôi thúc để đạt đến đích, những điều vượt trên cả mong đợi - của chính mình và của mọi người khác. Cụm từ chính yếu cần lưu ý ở đây là: đạt đến đích.
Nhiều người tìm kiếm động lực thúc đẩy cho mình nơi các yếu tố bên ngoài bản thân, chẳng hạn như việc họ được mức lương cao, có được địa vị và danh tiếng, hay việc họ được làm thành viên của một công ty có uy tín hàng đầu. Trong khi đó, trái lại, những người có phẩm chất lãnh đạo tiềm năng lại tìm được động lực thúc đẩy dựa vào một niềm khát vọng thẳm sâu bên trong bản thân, mong muốn đạt đến mục đích thành tựu vì chính thành tựu ấy chứ không vì điều gì khác nữa.
Nếu đang tìm kiếm các nhà lãnh đạo tiềm năng, bạn làm cách nào để nhận diện ra được những người biết tìm động lực thúc đẩy nơi thành tựu sẽ đạt đến, chứ không phải nơi các thứ phần thưởng bên ngoài? Đây là dấu hiệu đầu tiên: có một lòng say mê dành cho chính công việc đang làm - những người như thế luôn tìm kiếm những gì có tính cách thách thức trí sáng tạo, luôn ham thích học hỏi, luôn có cảm giác vô cùng hãnh diện khi hoàn thành tốt công việc mình được giao.
Họ cũng luôn thể hiện nhiệt tâm muốn cải thiện chuyện này việc kia sao cho tốt hơn. Những người có nhiệt tâm như thế thường có vẻ hiếm khi nào bằng lòng để yên những gì là nguyên trạng. Bao giờ họ cũng tự đặt cho mình các câu hỏi liên quan đến việc tại sao cứ phải giải quyết công chuyện theo cách này mà không phải theo cách kia; bao giờ họ cũng hăm hở tìm cách sáng kiến ra và áp dụng các giải pháp mới mẻ vào công việc họ đang làm.
Lấy thí dụ, anh quản lý một hãng mỹ phẩm kia cảm thấy bực bội vì luôn phải đợi đến hai tuần lễ mới nhận được bản báo cáo kết quả kinh doanh của các nhân viên anh. Cuối cùng, anh đã cất công tìm ra và cho lắp đặt một hệ thống điện thoại vận hành bằng kỹ thuật tự động; hệ thống này sẽ tự động gửi tin nhắn đến các nhân viên bán hàng vào lúc 5 giờ chiều hằng ngày, nhắc nhở họ báo cáo ngay kết quả kinh doanh - số cuộc điện thoại họ đã gọi để giao dịch, và số sản phẩm họ đã bán ra được - trong ngày. Hệ thống này đã giúp rút ngắn lại thời gian báo cáo kết quả kinh doanh từ mấy tuần lễ xuống còn mấy giờ đồng hồ.
Câu chuyện này còn minh họa hai nét đặc trưng khác, thường thấy nơi những người có động lực đạt đến thành tựu: họ không ngừng tìm cách nâng cao mức xà năng suất làm việc, và họ thích giữ vững các bước tiến bộ đã đạt được.
Trước hết hãy xét đến mức xà năng suất. Trong các cuộc duyệt kiểm năng suất làm việc, có thể những người có động lực thúc đẩy ở mức độ cao thường đề nghị cấp trên cứ việc "khai thác triệt để" khả năng của họ. Một nhân viên kết hợp được khả năng ý thức về mình với động lực thúc đẩy bên trong bản thân, tất nhiên sẽ nhận biết rõ những giới hạn của mình - tuy nhiên, cũng không vì thế mà anh ta đặt ra các mục tiêu quá dễ đạt đến.
Và điều này tất sẽ dẫn đến điều tiếp theo: những người được thôi thúc cải thiện năng suất làm việc cũng muốn tìm cách theo dõi bước tiến bộ - của chính họ, của đội ngũ họ, và của công ty họ. Trong khi những người có động lực thúc đẩy ở mức độ thấp thường cảm thấy rối mù về các kết quả đạt được, thì ngược lại, những người có động lực cao trong việc vươn đến thành tựu thường ra sức giữ vững các bước tiến bộ của mình bằng cách theo sát các tiêu chuẩn đánh giá khắt khe như mức độ lợi nhuận hay tình trạng phân khúc thị trường.
Tôi có biết một nhà quản lý tài chính kia - thường bắt đầu và kết thúc ngày làm việc của mình trên mạng Internet - luôn dành thì giờ hằng ngày để đánh giá tình trạng vận hành của quỹ vốn anh đang đầu tư dựa theo bốn tiêu chuẩn được đặt ra trong ngành công nghiệp.
Có điều thú vị là những người có động lực thúc đẩy cao luôn giữ được thái độ lạc quan cả khi họ không đạt được bước tiến bộ nào. Trong trường hợp đó, sự tự chủ bắt tay kết hợp với động lực thúc đẩy để giúp họ vượt qua được cảm giác thất vọng và chán nản là thứ sẽ xuất hiện sau một bước lùi hay thất bại nào đó.
Đến đây, hãy xét trường hợp một nhà quản lý danh mục vốn đầu tư khác đang làm việc tại một hãng đầu tư có quy mô lớn. Sau mấy năm trời vận hành hiệu quả, quỹ đầu tư cô quản lý bỗng chốc mà rơi vào tình trạng tuột phanh và sụt dốc thê thảm trong liên tục ba quý liền, dẫn đến sự việc ba công ty khách hàng lớn quyết định rút vốn và đi làm ăn ở chỗ khác.
Có thể một số nhà điều hành sẽ tìm cách đổ lỗi, cho rằng tình trạng sụt dốc kia là do các hoàn cảnh khách quan họ không kiểm soát được; có thể một số người khác lại nhìn vào nó như là bằng chứng nói lên sự thất bại về phần cá nhân họ. Tuy nhiên, nhà quản lý danh mục vốn đầu tư nêu trên đã nhìn thấy nơi tình trạng ấy một cơ hội để chứng minh cho người ta thấy rằng cô có khả năng xoay chuyển tình thế.
Hai năm sau đó, khi được cất nhắc vào một chức vụ thuộc hàng cao cấp nhất trong công ty, cô đã mô tả lại cái tạm gọi là thất bại mình đã trải qua, cho rằng đó là "điều tốt nhất tôi từng có được; từ nó, tôi rút ra được rất nhiều bài học có giá trị lớn lao".
Các nhà điều hành đang ra sức tìm kiếm để nhận ra những người có động lực thúc đẩy cao nhắm đến thành tựu, có thể nhìn vào miếng ghép cuối cùng này: thái độ tận tụy dấn thân cho tổ chức. Một khi biết yêu thích công việc mình làm vì chính nó, chứ không còn vì điều gì khác, thường thì người ta sẽ cảm thấy mình muốn tận tâm gắn bó với tổ chức đang giúp mình có được điều đó. Các nhân viên có thái độ tận tụy dấn thân như thế chắc chắn sẽ trung thành gắn bó với tổ chức cả khi những hãng săn đầu người cứ bám riết lấy họ, dùng tiền bạc mà thuyết phục họ rời bỏ tổ chức mình.
Không khó mấy để hiểu ra được lý do tại sao và làm thế nào mà động lực thúc đẩy nhắm đến mục đích thành tựu lại trở thành một thứ yếu tố giữ vai trò hết sức quan trọng trong nghệ thuật lãnh đạo đến vậy. Nếu đã đặt cho mình một mức xà năng suất làm việc cao, tất bạn cũng sẽ làm điều tương tự như thế cho tổ chức của bạn khi bạn ở vào một cương vị để làm điều đó.
Cũng vậy, một động lực đạt đến mức vượt trên các mục tiêu đã định và một mối lưu tâm đặt vào việc giữ vững bước tiến bộ đã đạt, là điều gì đó có tính cách lan truyền. Các nhà lãnh đạo hội đủ nơi mình các nét đặc trưng ấy, thường có thể quy tụ được quanh mình một đội ngũ các nhà quản lý mang cùng các nét đặc trưng như thế.
Và tất nhiên, thái độ lạc quan và hành động tận tụy dấn thân cho tổ chức cũng là những gì có tính cách nền tảng trong nghệ thuật lãnh đạo - cứ thử tưởng tượng ra việc người lãnh đạo một công ty nào đó không có đủ các phẩm chất này, tất bạn sẽ thấy công ty ấy đang tiến bước về đâu.
Kỹ năng xã hội
Ba yếu tố đầu tiên làm nên trí tuệ cảm xúc là các kỹ năng về sự tự quản bản thân (self-management). Hai yếu tố sau hết - tức là sự thấu cảm và kỹ năng xã hội - lại có liên quan đến khả năng làm chủ các mối quan hệ giữa mình với những người khác. Với vai trò là một yếu tố cấu thành nên trí tuệ cảm xúc, kỹ năng xã hội không hề là thứ gì đó đơn giản như thoạt nghe.
Nó không đơn thuần chỉ xoay quanh tính cách thân thiện mặc dầu những người có kỹ năng xã hội ở các mức độ cao thường hiếm khi nào có thái độ nhỏ nhen, ác ý. Đúng hơn, kỹ năng xã hội là sự thân thiện có kèm theo nó một mục đích: thúc đẩy những người khác đi theo hướng bạn muốn, dù đó là thái độ đồng tình về một chiến lược tiếp thị theo đường hướng mới, hoặc thái độ hưởng ứng đối với việc cho ra đời một sản phẩm mới.
Những người có kỹ năng xã hội thường tạo ra được một phạm vi rộng các mối quan hệ quen biết, và họ có tài tìm ra được tiếng nói chung với hết mọi loại người khác nhau - nói cách khác, họ có sở trường trong việc tạo ra tình trạng đồng thuận. Điều này không có nghĩa rằng họ không ngừng tìm cách xã hội hóa tiếng nói đồng thuận ấy, nhưng có nghĩa rằng họ luôn hành động dựa theo cái giả thiết cho rằng không ai có thể một mình mà hoàn tất được những việc quan trọng. Những người này luôn có sẵn cho mình một mạng lưới các mối quan hệ, để khi cần làm việc gì đó thì họ có thể dùng đến được.
So với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc, thì kỹ năng xã hội nằm ở vị trí cao nhất. Thường dễ làm chủ được cách rất hiệu quả các mối quan hệ khi ta hiểu rõ và kiểm soát được các thứ cảm xúc nơi chính bản thân và có thể cảm thấu được tâm tư tình cảm của những người khác. Ngay cả động lực thúc đẩy cũng góp tay vào việc kiến thiết nên kỹ năng xã hội.
Phải nhớ rằng những người được thúc đẩy do lòng khát khao đạt đến thành tựu thường dễ có thái độ lạc quan, cả trong những lúc phải đối diện với tình trạng thoái bộ hoặc thất bại. Khi ta có tinh thần lạc quan, thì "nhiệt lực" của ta sẽ tỏa lan khắp trên các cuộc đối thoại cùng các cuộc giao tiếp xã hội khác ta thường gặp trong đời sống hằng ngày.
Vì là kết quả phát xuất từ các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc, nên kỹ năng xã hội là thứ ta có thể dễ dàng nhận ra, bởi nó cũng mang các nét đặc trưng của các yếu tố trí tuệ cảm xúc ta đã xem xét qua.
Chẳng hạn, những người có kỹ năng xã hội thường tỏ ra tinh thông nghệ thuật quản lý đội ngũ - tức là họ có khả năng thấu cảm trong thế giới công việc. Cũng thế, họ là những người lão luyện về khả năng thuyết phục người khác - một khả năng cho thấy có sự kết hợp giữa ý thức về bản thân, khả năng tự chủ và thấu cảm. Với các kỹ năng ấy, những người có tài thuyết phục thường biết, thí dụ, lúc nào thì nên dùng đến tình cảm và lúc nào thì nên dùng đến lý trí. Và khi được thể hiện rõ ra ngoài, động lực thúc đẩy sẽ làm cho những người có kỹ năng xã hội trở thành những người có khả năng hợp tác tuyệt vời; ngọn lửa đam mê họ dành cho công việc sẽ tỏa lan sang đến những người khác chung quanh.
Tuy nhiên, có đôi khi, kỹ năng xã hội biểu lộ mình ra dưới những hình thức đặc trưng mà các yếu tố trí tuệ cảm xúc khác lại không có được. Chẳng hạn, đôi lúc, có thể những người có kỹ năng xã hội dường như chẳng đang làm một công việc gì cả trong giờ làm việc ở công ty họ. Có vẻ như họ đang rỗi thì giờ lắm vậy - tán gẫu những chuyện không đâu ở hành lang với các đồng nghiệp khác, hoặc vui giỡn cười đùa với những người làm ra vẻ đang làm việc nhưng thực ra đang làm các chuyện linh tinh khác.
Dù vậy, không mang kiểu suy nghĩ cho rằng mình nhất thiết phải giới hạn lại phạm vi các mối quan hệ, những người có kỹ năng xã hội thường tìm cách mở rộng việc kiến thiết các mối liên hệ giao tiếp, bởi họ biết rằng có thể sẽ có ngày nào đó, họ cần đến sự giúp đỡ từ những người họ đang tiếp xúc làm quen trong chính hôm nay.
Thí dụ, hãy xem xét trường hợp một người điều hành bộ phận chiến lược tại một hãng sản xuất máy tính có quy mô toàn cầu. Vào năm 1993, anh tin chắc rằng trong tương lai, đường hướng hoạt động của công ty mình sẽ có dính dáng đến lĩnh vực Internet. Suốt quãng thời gian đến một năm sau đó, anh đã tìm ra được những người có cùng cái nhìn với anh, và anh đã dùng kỹ năng xã hội mình có mà quy tụ lại và thiết lập nên được một cộng đồng mạng ảo - bao gồm rất nhiều người thuộc nhiều trình độ, lĩnh vực công tác, và trong nhiều quốc gia - cùng chia sẻ một quan điểm chung về vấn đề ấy.
Tiếp đến, anh dùng đội ngũ không chính thức này và cho ra đời một trang web liên hiệp. Không có ngân sách hay được công nhận chính thức, nhưng bằng sáng kiến và nỗ lực hành động của mình, anh đã đăng ký cho công ty mình tham gia một cuộc hội nghị thường niên trong ngành công nghiệp Internet. Kêu gọi sự hưởng ứng và thuyết phục được các bộ phận khác nhau trong công ty đóng góp cho quỹ hoạt động của mình, anh đã tuyển được hơn 50 người từ hàng tá bộ phận ấy để tham gia hỗ trợ cho việc quảng bá công ty tại cuộc hội nghị kia.
Và kết quả rất đáng lưu ý: trong vòng một năm sau cuộc hội nghị lần ấy, đội ngũ của người điều hành này đã thiết đặt được một nền móng vững chắc để cho ra đời bộ phận đầu tiên chuyên về lĩnh vực Internet trong công ty anh, và anh chính thức được đặt vào chức vụ điều hành bộ phận mới này. Và để làm được như vậy, không tuân theo những gì có tính cách thói lệ, người quản lý này đã tìm cách đẩy mạnh và duy trì các mối quan hệ với người này người kia thuộc mọi bộ phận khác nhau trong tổ chức của mình.
Kỹ năng xã hội có được nhìn nhận như là yếu tố cốt lõi trong nghệ thuật lãnh đạo ở hầu hết các công ty hay không? Câu trả lời là có, đặc biệt khi đem nó so sánh với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc. Có vẻ như bằng trực giác, ai cũng biết rằng các nhà lãnh đạo cần phải biết cách làm chủ sao cho có hiệu quả các mối quan hệ của mình; không nhà lãnh đạo nào là một hòn đảo cô độc.
Nói cho cùng, một nhà lãnh đạo có bổn phận phải biết dùng người này kẻ kia để hoàn tất các công việc, và để làm được như vậy thì nhà lãnh đạo ấy cần phải có kỹ năng xã hội. Một nhà lãnh đạo không có khả năng thấu cảm sẽ không thể có được kỹ năng xã hội. Và động lực thúc đẩy của một nhà lãnh đạo sẽ hóa vô dụng nếu ông ta không đủ khả năng lan truyền nhiệt huyết của mình đến mọi người khác trong tổ chức. Kỹ năng xã hội giúp các nhà lãnh đạo thể hiện ra được trí tuệ cảm xúc của mình trong công việc.
Sẽ là dại dột nếu cứ quả quyết rằng chỉ số thông minh và khả năng chuyên môn không hề đóng lấy một vai trò quan trọng nào trong nghệ thuật lãnh đạo. Tuy thế, cũng phải nói cho rõ rằng nghệ thuật lãnh đạo hẳn sẽ còn có chỗ khiếm khuyết nếu thiếu mất đi một thành phần quan trọng khác là trí tuệ cảm xúc.
Từng có lúc người ta cho rằng các yếu tố trí tuệ cảm xúc là thứ phẩm chất mà một nhà lãnh đạo doanh nghiệp "có được thì tốt." Tuy nhiên, giờ đây, với những gì đã thấy được qua cuộc khảo sát về năng suất làm việc, chúng ta biết rằng chúng là thứ phẩm chất mà các nhà lãnh đạo "buộc phải có mới được."
Chẳng hạn, những người có kỹ năng xã hội thường tỏ ra tinh thông nghệ thuật quản lý đội ngũ - tức là họ có khả năng thấu cảm trong thế giới công việc. Cũng thế, họ là những người lão luyện về khả năng thuyết phục người khác - một khả năng cho thấy có sự kết hợp giữa ý thức về bản thân, khả năng tự chủ và thấu cảm. Với các kỹ năng ấy, những người có tài thuyết phục thường biết, thí dụ, lúc nào thì nên dùng đến tình cảm và lúc nào thì nên dùng đến lý trí. Và khi được thể hiện rõ ra ngoài, động lực thúc đẩy sẽ làm cho những người có kỹ năng xã hội trở thành những người có khả năng hợp tác tuyệt vời; ngọn lửa đam mê họ dành cho công việc sẽ tỏa lan sang đến những người khác chung quanh.
Tuy nhiên, có đôi khi, kỹ năng xã hội biểu lộ mình ra dưới những hình thức đặc trưng mà các yếu tố trí tuệ cảm xúc khác lại không có được. Chẳng hạn, đôi lúc, có thể những người có kỹ năng xã hội dường như chẳng đang làm một công việc gì cả trong giờ làm việc ở công ty họ. Có vẻ như họ đang rỗi thì giờ lắm vậy - tán gẫu những chuyện không đâu ở hành lang với các đồng nghiệp khác, hoặc vui giỡn cười đùa với những người làm ra vẻ đang làm việc nhưng thực ra đang làm các chuyện linh tinh khác.
Dù vậy, không mang kiểu suy nghĩ cho rằng mình nhất thiết phải giới hạn lại phạm vi các mối quan hệ, những người có kỹ năng xã hội thường tìm cách mở rộng việc kiến thiết các mối liên hệ giao tiếp, bởi họ biết rằng có thể sẽ có ngày nào đó, họ cần đến sự giúp đỡ từ những người họ đang tiếp xúc làm quen trong chính hôm nay.
Thí dụ, hãy xem xét trường hợp một người điều hành bộ phận chiến lược tại một hãng sản xuất máy tính có quy mô toàn cầu. Vào năm 1993, anh tin chắc rằng trong tương lai, đường hướng hoạt động của công ty mình sẽ có dính dáng đến lĩnh vực Internet. Suốt quãng thời gian đến một năm sau đó, anh đã tìm ra được những người có cùng cái nhìn với anh, và anh đã dùng kỹ năng xã hội mình có mà quy tụ lại và thiết lập nên được một cộng đồng mạng ảo - bao gồm rất nhiều người thuộc nhiều trình độ, lĩnh vực công tác, và trong nhiều quốc gia - cùng chia sẻ một quan điểm chung về vấn đề ấy.
Tiếp đến, anh dùng đội ngũ không chính thức này và cho ra đời một trang web liên hiệp. Không có ngân sách hay được công nhận chính thức, nhưng bằng sáng kiến và nỗ lực hành động của mình, anh đã đăng ký cho công ty mình tham gia một cuộc hội nghị thường niên trong ngành công nghiệp Internet. Kêu gọi sự hưởng ứng và thuyết phục được các bộ phận khác nhau trong công ty đóng góp cho quỹ hoạt động của mình, anh đã tuyển được hơn 50 người từ hàng tá bộ phận ấy để tham gia hỗ trợ cho việc quảng bá công ty tại cuộc hội nghị kia.
Và kết quả rất đáng lưu ý: trong vòng một năm sau cuộc hội nghị lần ấy, đội ngũ của người điều hành này đã thiết đặt được một nền móng vững chắc để cho ra đời bộ phận đầu tiên chuyên về lĩnh vực Internet trong công ty anh, và anh chính thức được đặt vào chức vụ điều hành bộ phận mới này. Và để làm được như vậy, không tuân theo những gì có tính cách thói lệ, người quản lý này đã tìm cách đẩy mạnh và duy trì các mối quan hệ với người này người kia thuộc mọi bộ phận khác nhau trong tổ chức của mình.
Kỹ năng xã hội có được nhìn nhận như là yếu tố cốt lõi trong nghệ thuật lãnh đạo ở hầu hết các công ty hay không? Câu trả lời là có, đặc biệt khi đem nó so sánh với các yếu tố khác trong trí tuệ cảm xúc. Có vẻ như bằng trực giác, ai cũng biết rằng các nhà lãnh đạo cần phải biết cách làm chủ sao cho có hiệu quả các mối quan hệ của mình; không nhà lãnh đạo nào là một hòn đảo cô độc.
Nói cho cùng, một nhà lãnh đạo có bổn phận phải biết dùng người này kẻ kia để hoàn tất các công việc, và để làm được như vậy thì nhà lãnh đạo ấy cần phải có kỹ năng xã hội. Một nhà lãnh đạo không có khả năng thấu cảm sẽ không thể có được kỹ năng xã hội. Và động lực thúc đẩy của một nhà lãnh đạo sẽ hóa vô dụng nếu ông ta không đủ khả năng lan truyền nhiệt huyết của mình đến mọi người khác trong tổ chức. Kỹ năng xã hội giúp các nhà lãnh đạo thể hiện ra được trí tuệ cảm xúc của mình trong công việc.
Sẽ là dại dột nếu cứ quả quyết rằng chỉ số thông minh và khả năng chuyên môn không hề đóng lấy một vai trò quan trọng nào trong nghệ thuật lãnh đạo. Tuy thế, cũng phải nói cho rõ rằng nghệ thuật lãnh đạo hẳn sẽ còn có chỗ khiếm khuyết nếu thiếu mất đi một thành phần quan trọng khác là trí tuệ cảm xúc.
Từng có lúc người ta cho rằng các yếu tố trí tuệ cảm xúc là thứ phẩm chất mà một nhà lãnh đạo doanh nghiệp "có được thì tốt." Tuy nhiên, giờ đây, với những gì đã thấy được qua cuộc khảo sát về năng suất làm việc, chúng ta biết rằng chúng là thứ phẩm chất mà các nhà lãnh đạo "buộc phải có mới được."
May thay, trí tuệ cảm xúc là thứ ta có thể nhờ luyện tập mà có được. Tiến trình luyện tập ấy chắc chắn không dễ dàng chút nào. Nó cần đến thời gian và, trên hết tất cả, thái độ cam kết đến cùng. Nhưng dù gì, những ích lợi nó mang lại - cho cả cá nhân lẫn tổ chức - thật đáng để ta phải bỏ công tập luyện.
Năm yếu tố của trí tuệ cảm xúc trong công việc:
Có thể luyện tập để có được Trí tuệ Cảm xúc không?
Từ lâu, người ta đã tranh luận với nhau về việc các phẩm chất lãnh đạo là do bẩm sinh hay do tập luyện mà có. Và như thế, người ta cũng bàn cãi với nhau về trí tuệ cảm xúc. Chẳng hạn, liệu một số người sinh ra đã có sẵn nơi mình khả năng thấu cảm ở các mức độ nhất định nào đó, hay đó là khả năng họ thủ đắc được qua các kinh nghiệm sống? Câu trả lời là cả hai.
Khoa học đã chứng minh và hùng hồn quả quyết rằng trí tuệ cảm xúc có một phần là do di truyền. Các cuộc nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý và phát triển đã cho thấy rằng việc bồi đắp vun xây cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Trí tuệ cảm xúc có bao nhiêu phần trăm do di truyền và bao nhiêu phần trăm do được bồi đắp qua kinh nghiệm sống: đó là điều sẽ không bao giờ có ai biết được; tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu và thực tế đã rõ ràng cho thấy rằng người ta hoàn toàn có thể tập luyện để có được một trí tuệ cảm xúc.
Đây là điều chắc chắn: Trí tuệ cảm xúc gia tăng theo độ tuổi. Có hai chữ xưa nay người ta vẫn quen dùng để nói lên hiện tượng "gia tăng theo độ tuổi": trưởng thành. Tuy vậy, cả khi đã trưởng thành, một số người vẫn cần phải tiếp tục tập luyện để gia tăng được trí tuệ cảm xúc của mình. Điều đáng buồn là từ trước đến nay, có nhan nhản các thứ chương trình huấn luyện nhắm đến việc giúp xây dựng các kỹ năng lãnh đạo - kể cả trí tuệ cảm xúc - đã làm lãng phí của người ta thì giờ và tiền của. Vấn đề rất đơn giản như sau: Họ tập trung sai vào phần não bộ cần phát triển.
Trí tuệ cảm xúc phần lớn được sinh ra nhờ chất dẫn truyền thần kinh của hệ thống não rìa (limbic system) là hệ thống có chức năng chi phối các cảm giác, các xung động và thúc đẩy. Nhiều cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng hệ thống não rìa có thể vận hành cách tối ưu nhất nhờ động lực thúc đẩy, việc thực hành mở rộng và sự phản hồi.
Hãy thử so sánh cách vận hành này với kiểu vận hành nơi vùng tân vỏ não (neocortex) là vùng điều khiển các khả năng phân tích và kỹ thuật. Vùng tân vỏ não thâu lấy những gì thuộc về ý niệm và lý luận. Đó là phần não giúp cho ta có thể nhờ việc đọc một cuốn sách hướng dẫn mà hiểu ra cách dùng một chiếc máy vi tính hoặc biết cách thực hiện một cuộc gọi kinh doanh. Không có gì đáng ngạc nhiên - nhưng lại là điều sai lầm - việc hầu hết các chương trình huấn luyện giúp nâng cao trí tuệ cảm xúc lại tập trung cả vào vùng não này.
Trên thực tế, cuộc nghiên cứu của tôi - được tiến hành cùng với Nhóm Chuyên trách Nghiên cứu về Trí tuệ Xúc cảm Trong các Tổ chức - đã cho thấy rằng các chương trình huấn luyện theo kiểu tập trung tiếp cận vùng tân võ não như thế không những không giúp nâng cao được trí tuệ cảm xúc, mà còn tạo ra một tác động tiêu cực lên trên năng suất làm việc của nhiều người.
Để nâng cao được trí tuệ cảm xúc, các tổ chức cần thiết phải tái điều chỉnh đường hướng huấn luyện mà bổ sung thêm vào chương trình của mình cách thức tiếp cận hệ thống não rìa. Họ phải giúp những người khác phá bỏ những thói quen cư xử cũ kỹ và tập nên các thói quen cư xử mới mẻ. So với các chương trình huấn luyện theo đường hướng cũ, cách thức huấn luyện mới này không những đòi hỏi phải có thêm nhiều thời gian hơn, mà còn đòi hỏi phải có một phương pháp nhắm đến từng cá nhân nữa.
Thử hình dung một người điều hành bị các đồng nghiệp mình coi là thiếu độ thấu cảm. Một phần thiếu hụt ấy biểu hiện nơi việc cô không có khả năng lắng nghe; cô thường ngắt lời người khác và không mấy tập trung theo dõi những gì người khác đang nói. Để khắc phục phần thiếu sót này, người điều hành ấy cần phải có được động lực để thay đổi và, tiếp nữa, cô cần thực hành và tập nhận phản hồi từ những người khác trong công ty. Cô có thể nhờ một đồng nghiệp hay một người làm công tác huấn luyện kèm cặp lên tiếng nhắc nhở vào mỗi khi cô tỏ ra thiếu tập trung trong việc lắng nghe người khác như thế.
Tiếp đó, cô cần nhìn lại thái độ cư xử ấy của mình và tìm ra cách cải thiện nó để có thể biết cách lắng nghe người khác cho tốt hơn trong những lần sau. Và cô cần được hướng dẫn để quan sát một số người làm công tác điều hành có khả năng lắng nghe tốt nhằm học hỏi và bắt chước cách ứng xử của họ.
Và thái độ kiên trì và nỗ lực thực hành, một tiến trình như thế có thể đưa đến những kết quả tốt đẹp về lâu dài. Tôi biết một nhà điều hành làm việc ở Phố Wall đã tìm đủ mọi cách để cải thiện khả năng thấu cảm của mình - đặc biệt là khả năng đọc được thái độ phản ứng của những người khác và hiểu ra những gì họ đang suy nghĩ.
Vào thời gian trước lúc ông bắt đầu tập luyện khả năng này, những thuộc cấp của ông luôn cảm thấy khiếp hãi khi làm việc với ông. Thậm chí nhiều người thường tìm cách lảng tránh ông, không dám nói những cảm nghĩ thật của họ về ông. Và cuối cùng, tự ông cũng cảm nhận được thực tế ấy và lấy làm buồn khổ.
Rồi nhờ đến sự giúp đỡ của một người làm công tác huấn luyện cá nhân, ông bắt đầu áp dụng các biện pháp giúp cải thiện khả năng thấu cảm qua việc thực hành và nhận phản hồi từ những người khác. Ông phải thực hiện bước đầu tiên là làm một chuyến đi nghỉ ở nước ngoài, đến một đất nước ông không thể dùng được thứ tiếng ông nói để làm cho người khác hiểu ông.
Và trong thời gian ở đó, ông đã để ý quan sát các phản ứng của mình trước những người xa lạ, cũng như khả năng cởi mở của ông trước những người khác biệt với ông. Lúc trở về nhà, trở nên khiêm nhường hơn sau một tuần đi nghỉ như thế ở nước ngoài, nhà điều hành này đề nghị người huấn luyện ông lưu ý theo dõi để nhận xét xem cách ông cư xử với mọi người trong công ty có khác đi so với trước hay không.
Cùng lúc, ông cũng có ý thức tận dụng các cuộc giao tiếp về công việc, coi đó như cơ hội để thực hành việc "lắng nghe" những ý tưởng khác biệt với quan điểm của ông. Sau nữa, ông cũng cho ghi hình từng cuộc họp của mình, và đề nghị những người làm việc với và cho ông đưa ra nhận xét về khả năng ông nhận biết và nắm bắt tâm tâm tư cảm nghĩ của những người khác.
Phải mất hàng mấy tháng trời, nhưng cuối cùng rồi trí tuệ cảm xúc của nhà điều hành này cũng đã được nâng cao hơn trước, và bước cải thiện ấy đã được thể hiện rõ nơi năng suất làm việc hiệu quả hơn của ông.
Cần thiết phải nhấn mạnh rằng việc xây dựng trí tuệ cảm xúc không thể - và sẽ không - trở thành hiện thực được nếu như người ta không có đủ lòng chân thành khát khao, cũng như không biết bỏ ra công sức để liên tục thực hành. Việc tham dự một buổi hội thảo ngắn ngủi hướng dẫn cách thức nâng cao trí tuệ cảm xúc, sẽ chẳng đem lại được ích lợi gì; và người ta cũng không thể đọc xong một cuốn cẩm nang chỉ dẫn nào đó mà lập tức có được trí tuệ cảm xúc.
Ralph Waldo Emerson từng viết rằng: "Không có điều gì vĩ đại con người từng đạt đến được mà không có nhiệt tâm." Nếu cái đích bạn nhắm đến là trở thành một nhà lãnh đạo đích thực, thì câu danh ngôn vừa rồi có thể đóng vai trò như chiếc cột chỉ đường trong bước đường bạn nỗ lực để phát triển và có được một trí tuệ xúc cảm ở mức độ cao.
Nguồn: tuanvietnam.net